TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HUẾ - TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
BẢN ÁN 29/2020/HNGĐ-ST NGÀY 10/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 10 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Huế (số 60 Nguyễn Huệ - Huế) xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 176/2020/TLST-HNGĐ ngày 27/4/2020; Về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2020/QĐST- HNGĐ ngày 17 tháng 8 năm 2020, Quyết định hoãn phiên toà số: 157/2020/QĐST- HNGĐ ngày 24 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Đặng Thị Cẩm T, sinh năm 1982; địa chỉ: 5/30/27 Thân Văn N, phường T, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Có mặt.
Bị đơn: Anh Hoàng Trọng N, sinh năm 1976; địa chỉ: 34 Dương Đức T, phường T, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 10/3/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn là chị Đặng Thị Cẩm Tú đều trình bày:
Chị và anh Hoàng Trọng N kết hôn tự nguyện, đã được UBND phường T, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế chứng nhận kết hôn vào ngày 25/11/2002. Sau khi kết hôn, vợ chồng chị chung sống với nhau không có hạnh phúc nhưng vì con nên chị cố gắng chịu đựng. Đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng không hợp tính nhau, bất đồng quan điểm sống, anh Nên ham chơi cờ bạc, không đưa tiền về nuôi con, về nhà còn gây gổ, chửi bới chị. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 9 năm 2018 cho đến nay không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị xin ly hôn anh N để ổn định cuộc sống.
Về con chung: Chị T khai chị và anh N có 02 con chung là Hoàng Thị Minh T, sinh ngày 23/9/2001 và Hoàng Trọng Minh V, sinh ngày 11/6/2008. Hiện cháu T đã thành niên, đã kết hôn và ở riêng, còn cháu V đang ở với chị. Chị T có nguyện vọng được tiếp tục trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cháu V và không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Chị T khai vợ chồng chị tự thoả thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Chị T khai vợ chồng chị không có nợ chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án, anh Hoàng Trọng N không có văn bản trình bày ý kiến gửi Tòa án, không đến Toà án để tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải. Tại phiên toà, anh N vắng mặt lần thứ hai không có lý do.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 20/7/2020, bà Phan Thị L (mẹ anh N) trình bày: Anh N và chị T sống hạnh phúc một thời gian dài, đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do chị T làm ăn thua lỗ, vỡ nợ, dẫn đến vợ chồng xích mích nên sống ly thân đã hơn hai năm nay, không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Nay chị T xin ly hôn anh N thì đề nghị Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật. Đối với việc nuôi con chung thì đề nghị Toà án giao cháu Hoàng Trọng Minh V cho chị T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng vì anh N đi làm suốt ngày, tối mới về nhà nên không có điều kiện chăm sóc con tốt bằng chị T.
Tại biên bản xác minh ngày 06/7/2020, chính quyền địa phương phường Thuỷ Biều cho biết:Anh N và chị T chung sống với nhau từ năm 1997, sau đó đăng ký kết hôn hợp pháp tại UBND phường T, thành phố Huế vào ngày 25/11/2002. Qúa trình chung sống với nhau trước đây bình thường, đến khoảng đầu năm 2018 thì xảy ra mâu thuẫn do nợ nần nên vợ chồng sống ly thân đã hai năm nay.
Tại phiên tòa, chị T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn anh N, được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con.
Về việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật, đại diện VKS nhân dân thành phố Huế có ý kiến:
[1] Việc tuân theo pháp luật tố tụng của những người tiến hành tố tụng:
Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thâm phan, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng:
- Đối với nguyên đơn: đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 70, Điều 71, Điều 234 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Đối với bị đơn: bị đơn vắng mặt tại phiên toà là đã vi phạm theo quy định tại Điều 70, Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ Điều 58, Điều 262 Bộ luật tố tụng dân sự: Áp dụng Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 217, 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015:
Các Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội để giải quyết theo hướng: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Đặng Thị Cẩm T.
Về quan hệ hôn nhân: Chị Đặng Thị Cẩm T được ly hôn anh Hoàng Trọng N.
Về con chung: Giao cháu Hoàng Trọng Minh V, sinh ngày 11/6/2008 cho chị Đặng Thị Cẩm T chăm sóc nuôi dưỡng cho đến tuổi trưởng thành.
Về cấp dưỡng nuôi con: Do chị T không có yêu cầu nên không xem xét giải quyết.
Về tài sản chung, nợ chung: Do chị T và anh N không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.
Về án phí: Buộc chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Chị T khởi kiện xin ly hôn anh N có nơi cư trú: 34 Đặng Đức T, phường T, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Do đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình nên theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Anh N đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến tham gia tố tụng tại phiên tòa, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, căn cứ vào khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh N.
[2] Về nội dung:
[2.1] Chị T và anh N có quá trình chung sống với nhau, trên cơ sở tự nguyện, hai bên đã đăng ký kết hôn tại UBND phường T, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế theo giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 25/11/2002 (quyển số 01, số 79/2002). Do đó, đây là hôn nhân hợp pháp.
[2.2] Về yêu cầu xin ly hôn của chị T, Hội đồng xét xử thấy rằng: Theo trình bày của chị T thì nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng do không hợp tính nhau, bất đồng quan điểm sống, anh N ham chơi cờ bạc về nhà gây gổ, chửi bới vợ con, sống không có trách nhiệm với gia đình, vợ chồng sống ly thân từ năm 2018 đến nay là phù hợp với xác minh tại chính quyền địa phương phường Thuỷ Biều, thành phố Huế xác nhận “vợ chồng anh N chị T sống ly thân đã hai năm nay ”. Như vậy, có cơ sở xác định đời sống chung hiện nay giữa anh N và chị T không tồn tại.
Quá trình giải quyết vụ án, mặc dù Toà án đã nhiều lần tống đạt giấy triệu tập, nhưng anh N vẫn không đến Toà án để làm việc, hòa giải và không tham gia xét xử tại phiên tòa, không liên lạc với chị T là thể hiện sự bỏ mặc, không có thiện chí mong muốn để hòa giải đoàn tụ gia đình, nên mục đích hôn nhân là không thể đạt được.
Xét thấy hôn nhân giữa anh N và chị T đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, hôn nhân không còn tồn tại trên thực tế, nên Hội đồng xét xử cần áp dụng điều 56 Luật hôn nhân gia đình, chấp nhận đơn của chị T, cho chị T được ly hôn anh N.
[2.3] Về con chung: Chị T và anh N có hai con chung là Hoàng Thị Minh T, sinh ngày 23/9/2001 và Hoàng Trọng Minh V, sinh ngày 11/6/2008, hiện cháu V đang ở với chị T.
Đối với cháu T đến nay đã thành niên, không bị mất năng lực hành vi dân sự và không ai có yêu cầu gì, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Xét yêu cầu được trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn của chị T, Hội đồng xét xử thấy rằng: Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn giữa vợ chồng chị T và anh Nên do không hợp tính nhau, bất đồng quan điểm sống, anh Nên ham chơi, hay rượu chè về nhà gây gổ, chửi bới vợ con, sống không có trách nhiệm với gia đình; Tại biên bản lấy lời khai ngày 06/7/2020 của cháu Hoàng Trọng Minh V thể hiện nội dung: Nếu ba mẹ ly hôn thì cháu có nguyện vọng sống với mẹ. Nhằm để đảm bảo sự phát triển bình thường, ổn định tâm lý và phù hợp với nguyện vọng của cháu cũng như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa, không gây xáo trộn việc hiện nay cháu Vũ đang ở với chị T, nên Hội đồng xét xử cần phải giao cháu Hoàng Trọng Minh V cho chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng sau khi ly hôn.
[2.4] Về cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn: Do chị T không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[2.5] Về tài sản chung và nợ chung: Do chị T và anh N không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[2.6] Về án phí: Chị T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm gồm 300.000 đồng.
Bởi các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015:
Áp dụng các Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 và Điều 110 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đặng Thị Cẩm T.
Chị Đặng Thị Cẩm T được ly hôn anh Hoàng Trọng N.
2. Về con chung: Giao cháu Hoàng Trọng Minh V, sinh ngày 11/6/2008 cho chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, cho đến khi cháu V đủ 18 tuổi.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom mà không ai được cản trở.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, được bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự năm 2014, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự và Điều 7a, 7b Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự năm 2004; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
3. Về tài sản chung và nợ chung: Do chị Đặng Thị Cẩm T và anh Hoàng Trọng N không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
4. Về án phí: Chị T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm gồm 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 009741 ngày 23/4/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Huế. Chị T đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.
Án xử sơ thẩm công khai báo cho nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.
Bản án 29/2020/HNGĐ-ST ngày 10/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 29/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Huế - Thừa Thiên Huế |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 10/09/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về