Bản án 29/2020/DS-ST ngày 15/09/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ XUYÊN, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 29/2020/DS-ST NGÀY 15/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mỹ Xuyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 27/2020/TLST - DS ngày 02 tháng 3 năm 2020, về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 115/2020/QĐST – DS, ngày 07 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Đ.

 Minh Địa chỉ: Số 41 và 45 đường Lê D, phường Bến N, Quận 1, thành phố Hồ Chí Người đại diện theo pháp luật: Ông Trịnh Văn T, chức vụ: Chủ tịch hội đồng quản trị.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lâm Văn N, chức vụ: Chuyên viên thu hồi nợ Ngân hàng TMCP Phương Đ – Chi nhánh Sóc T.

Địa chỉ: Số 53 đường Trần Hưng Đ, phường 3, thành phố Sóc T, tỉnh Sóc T.

- Bị đơn: Ông Trịnh Minh C và bà Thái Sơn Thúy K.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Thái Tứ Minh Q, sinh năm 1985. Ông Trịnh Quốc A; bà Nguyễn Phương N.

Cùng địa chỉ: ấp Hòa K, xã Thạnh Q, huyện Mỹ X, tỉnh Sóc T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 - Theo đơn khởi kiện ngày 07/02/2020 và tại phiên toà hôm nay, đại diện ủy quyền của nguyên đơn là ông Lâm Văn N trình bày:

Ngày 03/01/2018, ông Trịnh Minh C, bà Thái Sơn Thúy K và Ngân hàng TMCP Phương Đ – Chi nhánh Sóc T đã thỏa thuận ký kết hợp đồng tín dụng số 0006/2018/HĐTD – CN và Khế ước nhận nợ số 0006.01/2018 – OCB/K ƯNN - CN với số tiền vay số tiền vốn là 185.000.000 đồng, thời hạn vay 84 tháng. Mục đích vay vốn: Tiêu dùng gia đình.

Lãi suất cho vay trong hạn 11,5%/năm tại thời điểm giải ngân. (trên cơ sở tính 01 năm là 360 ngày). Tương đương lãi suất vay trên cơ cở tính là 365 ngày là 11,6597%/năm, với công thức quy đổi là (11,5%/năm: 360 ngày) x 365 ngày), áp dụng lãi suất cho vay điều chỉnh định kỳ 06 tháng/lần, theo công thức tính lãi như sau: Lãi suất cho vay (điều chỉnh) = Lãi suất cơ sở + Biên độ lãi suất, trong đó: Lãi suất cơ sở = (Bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm VNĐ kỳ hạn 12 tháng trả lãi cuối kỳ do OCB công bố tại thời điểm tính lãi: 360) x 365.

Biên độ lãi suất: Tối thiểu (4%/năm: 360) x 365 Lãi suất quá hạn: Bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn.

Khi vay vốn, để đảm bảo tiền vay ông Thái Tứ Minh Q và Trịnh Minh C và bà Thái Sơn Thúy K đã thế chấp tài sản, cụ thể:

+ 01 Quyền sử dụng đất theo Giấy CNQSD đất số phát hành BY143550; số vào sổ CH01528, do UBND huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 14/4/2015 do ông Thái Tứ Minh Q đứng tên sở hữu, diện tích 3.080,4 m2; loại T+ LN theo hợp đồng thế chấp tài sản số 0521/2015BĐ ngày 16/11/2015, Hợp đồng sửa đổi bổ sung số 0521.01/PL – BĐ ngày 14/12/2016, Hợp đồng sửa đổi bổ sung số 0521.02/PL – BĐ ngày 03/01/2018 tại văn phòng công chứng Ba Xuyên, đã được đăng ký thế chấp ngày 16/11/2015 tại Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Mỹ Xuyên.

Quá trình thực hiện hợp đồng ông Trịnh Minh C và bà Thái Sơn Thúy K đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ và chỉ trả cho Ngân hàng số tiền vốn là 65.967.025đ, lãi tính từ ngày 03/01/2018 đến hết ngày 04/7/2020 là 46.486.845đ, tổng cộng đã trả vốn lãi là 112.448.869đ.

Ngân hàng đã nhiều lần nhắc nhở đến hạn thanh toán nhưng đến nay ông C và bà K vẫn không thanh toán nợ vay cho Ngân hàng.

Tại phiên tòa đại diện Ngân hàng yêu cầu ông C và bà K phải trả số tiền tính từ ngày 04/7/2020 đến ngày xét xử sơ thẩm là 15/9/2020 số tiền vốn lãi là 121.947.682 đồng trong đó (Nợ gốc 119.032.976 đồng, nợ lãi 2.914.706 đồng) và tiền phát sinh theo hợp đồng tín dụng đã ký từ ngày 16/9/2020 cho đến khi ông C và bà K trả dứt nợ.

Nếu ông C và bà K không thực hiện hoặc thực hiện không đúng và đầy đủ nghĩa vụ trả nợ nêu trên thì Ngân hàng TMCP Phương Đ yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền phát mãi, xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi toàn bộ khoản nợ cho Ngân hàng.

- Tại biên bản lấy lời khai ngày 27/8/2020 bị đơn ông Trịnh Minh C trình bày:

Ông C thừa nhận vào ngày năm 2018 ông có ký hợp đồng tín dụng với Ngân hàng TMCP Phương Đ - chi nhánh Sóc T để vay số tiền vốn là 185.000.000 đồng như Ngân hàng đã trình bày. Hiện nay ông C thừa nhận còn nợ Ngân hàng số tiền vốn và lãi tính đến ngày 06/02/2020 là 140.815.969đ Khi vay thì ông Thái Tứ Minh Q đã đứng ra dùng tài sản của mình để bảo đảm khoản nợ vay cho ông C và bà K và ông Q đã thế chấp cho Ngân hàng 01 Quyền sử dụng đất theo Giấy CNQSD do UBND huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 14/4/2015 do ông Thái Tứ Minh Q đứng tên sở hữu, diện tích 3.080,4 m2. Nay Ngân hàng TMCP Phương Đ - chi nhánh Sóc T yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông C và bà K trả số nợ trên thì ông C cũng thống nhất nhưng do hiện nay đang gặp khó khăn về tài chính nên chưa trả nợ cho Ngân hàng được và xin trả dần theo hợp đồng.

- Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về đường lối giải quyết vụ án là đề nghị HĐXX xử buộc các bị đơn phải có trách nhiệm liên đới hoàn trả cho nguyên đơn số tiền vốn và lãi tính đến ngày 15/9/2020 là 121.947.682 đồng và lãi phát sinh theo hợp đồng cho đến khi hoàn tất nợ gốc. Trường hợp ông C và bà K không thực hiện trả vốn và lãi theo cam kết thì Ngân hàng TMCP Phương Đ- Chi nhánh Sóc T có quyền yêu cầu phát mãi tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để thu hồi nợ. Đối với ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của thẩm phán, Hội đồng xét xử về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án tuân theo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, lời trình bày của đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đối với các bị đơn ông Trịnh Minh C và bà Thái Sơn Thúy K, ông Thái Tứ Minh Q, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trịnh Quốc A, bà Nguyễn Phương N đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không lý do, vì vậy căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt ông C, bà K, ông Q, ông A, bà N theo quy định pháp luật.

[2] Về nội dung:

- Xét yêu cầu của nguyên đơn yêu cầu bị đơn hoàn trả số tiền vốn lãi tổng cộng là 121.947.682 đồng thì thấy:

Vào ngày 03/01/2018, ông Trịnh Minh C, bà Thái Sơn Thúy K và Ngân hàng TMCP Phương Đ – Chi nhánh Sóc T đã thỏa thuận ký kết hợp đồng tín dụng số 0006/2018/HĐTD – CN và Khế ước nhận nợ số 0006.01/2018 – OCB/K ƯNN - CN với số tiền vay là 185.000.000 đồng, thời hạn vay 84 tháng. Mục đích vay vốn: Tiêu dùng gia đình. Lãi suất cho vay trong hạn 11,5%/năm, Lãi suất quá hạn: Bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn.

Khi vay vốn, để đảm bảo tiền vay ông Thái tứ Minh Q và Trịnh Minh C và bà Thái Sơn Thúy K đã thế chấp tài sản, cụ thể:

+ 01 Quyền sử dụng đất theo Giấy CNQSD đất số phát hành BY143550; số vào sổ CH01528, do UBND huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 14/4/2015 do ông Thái Tứ Minh Q đứng tên sở hữu, diện tích 3.080,4 m2; loại T+ LN theo hợp đồng thế chấp tài sản số 0521/2015BĐ ngày 16/11/2015, Hợp đồng sửa đổi bổ sung số 0521.01/PL – BĐ ngày 14/12/2016, Hợp đồng sửa đổi bổ sung số 0521.02/PL – BĐ ngày 03/01/2018 tại văn phòng công chứng Ba Xuyên, đã được đăng ký thế chấp ngày 16/11/2015 tại Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Mỹ Xuyên.

Quá trình thực hiện hợp đồng ông C và bà đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ được quy định trong hợp đồng tín dụng và chỉ trả cho Ngân hàng số tiền vốn và lãi tính đến ngày 4/7/2020 là 112.448.896đ, số còn lại không thanh toán đúng theo hợp đồng.

Nay Ngân hàng TMCP Phương Đ – Chi nhánh Sóc T yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông C và bà K phải trả số tiền vốn và lãi tính từ ngày 05/7/2020 đến ngày 15/9/2020 số tiền vốn lãi là 121.947.682 đồng trong đó (Nợ gốc 119.032.976 đồng, nợ lãi 2.914.706 đồng) và tiền phát sinh theo hợp đồng cho đến khi hoàn trả hết nợ gốc. Nếu ông C và bà K không thanh toán số nợ trên thì Ngân hàng yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi nợ cho Ngân hàng.

[3] Xét thấy theo hợp đồng tín dụng số 0006/2018/HĐTD – CN thì phía nguyên đơn đã thực hiện nghĩa vụ là giao cho ông C số tiền vốn vay như thỏa thuận trong hợp đồng, nhưng phía bị đơn chỉ trả cho Ngân hàng số tiền vốn lãi tổng cộng là 112.448.869đ. Tính đến ngày xét xử sơ thẩm ông C và bà K còn nợ Ngân hàng tổng số tiền vốn và lãi là 121.947.682 đồng.

[4] Như vậy các bị đơn chưa thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ như đã thỏa thuận trong hợp đồng là vi phạm hợp đồng, là có lỗi. Căn cứ Điều 9 hợp đồng cho vay hạn mức số 67842/2018 – HĐCVHM/NHCT822 ngày 03/10/2018 và khoản 1 Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng thì Tổ chức tính dụng có quyền chấm dứt hợp đồng, thu hồi nợ trước hạn khi phát hiện khách hàng vi phạm các quy định trong hợp đồng cấp tín dụng. Vì vậy Ngân hàng TMCP Phương Đ – Chi nhánh tỉnh Sóc T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông C và bà K có trách nhiệm liên đới trả số tiền vốn lãi tính đến ngày 15/9/2020 ông C và bà K còn nợ Ngân hàng tổng số số tiền vốn lãi là 121.947.682 đồng trong đó (Nợ gốc 119.032.976 đồng, nợ lãi 2.914.706 đồng và lãi quá hạn phát sinh theo hợp đồng cho đến khi trả hết nợ là có căn cứ để chấp nhận. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

[5] Về xử lý tài sản thế chấp: Ngân hàng yêu cầu trong trường hợp ông C và bà K không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng yêu cầu phát mãi tài sản thế chấp là 01 Quyền sử dụng đất theo Giấy CNQSD đất số phát hành BY143550; số vào sổ CH01528, do UBND huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 14/4/2015 do ông Thái Tứ Minh Q đứng tên sở hữu, diện tích 3.080,4 m2; loại T+ LN theo hợp đồng thế chấp tài sản số 0521/2015BĐ ngày 16/11/2015.

Xét thấy, việc ông Thái Tứ Minh Q dùng tài sản của mình để bảo đảm cho khoản vay của ông C và bà K theo hợp tín dụng số 67842/2018 – HĐCVHM/NHCT822 ngày 03/10/2018 là tự nguyện, hợp đồng thế chấp đã được chứng thực và đăng ký giao dịch bảo đảm. Cho nên, trong trường hợp ông C và bà K không thực hiện trả vốn và lãi theo cam kết thì Ngân hàng có quyền yêu cầu phát mãi tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để thu hồi nợ. Tuy nhiên hiện nay trên phần đất đã thế chấp có 01 căn nhà cấp 4 có kết cấu: Vách lá, mái lợp tol, nền lót gạch tàu, vách trước xây tường, vách sau bằng lá, cột đúc và trên phần đất còn có một số cây trồng như Dừa, Xoài của ông Q mà con của ông C va bà K là anh Trịnh Quốc A và chị Nguyễn Phương N đang sử dụng. Căn cứ khoản 1 Điều 325 của Bộ luật dân sự năm 2015 thì trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và người sử dụng đất đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì tài sản được xử lý bao gồm cả tài sản gắn liền với đất. Mặc dù ông Q không thế chấp tài sản trên đất nhưng theo qui định trên thì khi xử lý tài sản thế chấp phải xử lý luôn tài sản trên đất. Vì vậy cần buộc ông Trịnh Quốc A và bà Nguyễn Phương N phải cùng có trách nhiệm liên đới giao toàn bộ tài sản đã thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất cho cơ quan có thẩm quyền phát mãi để thu hồi nợ nếu ông C và bà K không thanh toán cho Ngân hàng khoản nợ trên.

[6] Từ những phân tích trên Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Phương Đ - Chi nhánh tỉnh Sóc T về việc yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông C và bà Kiều hoàn trả số tiền vốn và lãi tính đến ngày 15/9/2020 là số tiền vốn lãi là 121.947.682 đồng trong đó (Nợ gốc 119.032.976 đồng, nợ lãi 2.914.706 đồng và tiền phát sinh theo hợp đồng tín dụng đã ký từ ngày 16/9/2020 cho đến khi ông Trịnh Minh C và bà Thái Sơn Thúy K trả dứt nợ. Nếu ông C và bà K không thực hiện việc thanh toán cho Ngân hàng thì phía Ngân hàng có quyền yêu cầu phát mãi tài sản đã thế chấp để thu hồi nợ.

[7] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn Ngân hàng Phương Đ - Chi nhánh Sóc T được Hội đồng xét xử chấp nhận nên các bị đơn phải liên đới chịu án phí dân sự sơ thẩm là 6.097.384 đồng .

[8] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chổ: Ông C và bà K phải chịu số tiền là 700.000 đồng. Ngân hàng TMCP Phương Đ đã nộp tạm ứng trước nên ông C và bà K có trách nhiệm hoàn trả lại cho Ngân hàng TMCP Phương Đ số tiền 700.000 đồng.

[9] Đối với ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án là đề nghị HĐXX xử buộc các bị đơn phải có trách nhiệm liên đới hoàn trả cho nguyên đơn số tiền vốn lãi số tiền vốn và lãi tính đến ngày 15/9/2020 là số tiền vốn lãi là 121.947.682 đồng trong đó (Nợ gốc 119.032.976 đồng, nợ lãi 2.914.706 đồng và tiền phát sinh theo hợp đồng tín dụng đã ký từ ngày 07/02/2020 cho đến khi ông Trịnh Minh C và bà Thái Sơn Thúy K trả dứt nợ, đồng, trường hợp ông C và bà K không thực hiện trả vốn và lãi theo cam kết thì Ngân hàng TMCP Phương Đ - Chi nhánh Sóc T có quyền yêu cầu phát mãi tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để thu hồi nợ. Như đã phân tích ở trên xét thấy đề nghị của đại diện viện kiểm sát là có căn cứ nên HĐXX chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 30; điểm b khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39: khoản 2 Điều 92; khoản 1 Điều 147; Khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 1 Điều 244; Điều 271; khoản 1, 3 Điều 273 và khoản 1 Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015:

- Áp dụng Điều 317; Điều 318; 463; Điều 466 Bộ luật dân sự 2015:

- Điều 91 và Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010.

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Đ.

2. Xử buộc ông Trịnh Minh C và bà Thái Sơn Thúy K phải có trách nhiệm liên đới hoàn trả cho Ngân hàng TMCP Phương Đ số tiền vốn và lãi tổng cộng số tiền là 121.947.682 đồng trong đó (Nợ gốc 119.032.976 đồng, nợ lãi 2.914.706 đồng) và lãi quá hạn phát sinh theo hợp đồng tín dụng số 0006/2018/HĐTD-CN, ngày 03/01/2018 cho đến khi trả hết nợ.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, ông C và bà K còn phải chịu lãi trên số nợ gốc theo lãi suất quá hạn mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng số số 0006/2018/HĐTD – CN và Khế ước nhận nợ số 0006.01/2018 – OCB/KƯNN - CN cho đến khi hoàn tất nợ gốc.

Trong trường hợp ông C và bà K không trả vốn và lãi cho Ngân hàng TMCP Phương Đ, để đảm bảo việc thu hồi nợ thì Ngân hàng TMCP Phương Đ có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành dân sự huyện Mỹ Xuyên phát mãi tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo Giấy CNQSD đất số phát hành BY143550; số vào sổ CH01528, do UBND huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 14/4/2015 do ông Thái Tứ Minh Q đứng tên quyền sử dụng đất, diện tích 3.080,4 m2; loại T+ LN theo hợp đồng thế chấp tài sản số 0521/2015BĐ ngày 16/11/2015, Hợp đồng sửa đổi bổ sung số 0521.01/PL – BĐ ngày 14/12/2016, Hợp đồng sửa đổi bổ sung số 0521.02/PL – BĐ ngày 03/01/2018 tại văn phòng công chứng Ba Xuyên, đã được đăng ký thế chấp ngày 16/11/2015 tại Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Mỹ Xuyên để thu hồi nợ.

- Ông Trịnh Minh C, bà Thái Sơn Thúy K, ông Thái Tứ Minh Q, ông Trịnh Quốc A và bà Nguyễn Phương N phải cùng có trách nhiệm liên đới giao toàn bộ tài sản đã thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất cho cơ quan có thẩm quyền phát mãi để thu hồi nợ nếu ông C và bà K không thanh toán cho Ngân hàng khoản nợ trên.

Về án phí dân sự sơ thẩm:

-Nguyên đơn Ngân hàng TMCP Phương Đ không phải chịu án phí và được hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 3.520.000 đồng theo biên lai thu số 0000200, ngày 27/02/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.

- Ông Trịnh Minh C, bà Thái Sơn Thúy K phải liên đới chịu án phí dân sự sơ thẩm là 6.097.384 đồng.

- Về chi phí xem xét, thẩm định tại chổ: Ông C và bà K phải chịu số tiền là 700.000 đồng. Ngân hàng TMCP Phương Đ đã nộp tạm ứng trước nên ông C và bà K có trách nhiệm hoàn trả lại cho Ngân hàng TMCP Phương Đ số tiền 700.000 đồng.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng giải quyết theo thủ tục phúc thẩm. Đối với các bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 29/2020/DS-ST ngày 15/09/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:29/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Xuyên - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 15/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;