TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 29/2020/DS-ST NGÀY 05/05/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VAY TÀI SẢN
Ngày 05 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 433/2019/TLST-DS ngày 20 tháng 12 năm 2019 về “tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 78/2020/QĐXXST-DS ngày 16 tháng 3 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 64/2020/QĐST-DS ngày 07 tháng 4 năm 2020, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ (sau đay được viết tắt là DBank); địa chỉ trụ sở chính: số A, đường P, Phường A, quận P, thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Hữu T, chức vụ: Nhân viên Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ – Phòng Giao dịch C; là người đại diện theo ủy quyền (theo Quyết định ủy quyền số 122/QĐ-DAB-HĐQT ngày 27/4/2016 của Chủ tịch Hội đồng quản trị DBank; Quyết định ủy quyền thường xuyên số 1269/QĐ-DAB-PC ngày 26/7/2016 của Tổng giám đốc DBank và Quyết định ủy quyền tham gia tố tụng ngày 04/11/2019 của Giám đốc DBank – Phòng Giao dịch C); có mặt.
đơn: Bà Lưu Thị T, sinh năm 1989; địa chỉ: ấp A, xã A, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1990; địa chỉ: ấp A, xã A, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện và các lời khai cung cấp trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn cho rằng, vào ngày 21/11/2017, DBank – Phòng Giao dịch C và bà Lưu Thị T có ký kết hợp đồng tín dụng số 00893954/0135542601T17071 ngày 21/11/2017. Theo đó, Ngân hàng cho bà T vay số tiền 20.000.000 đồng; mục đích vay tiêu dùng; thời hạn vay 12 tháng, kể từ ngày 21/11/2017 đến hết ngày 21/11/2018 với hình thức tín chấp; lãi suất vay trong hạn là 10%/năm; lãi suất quá hạn 150% lãi suất trong hạn; trả nợ gốc và lãi định kỳ hàng tháng, từ tháng 12/2017 đến tháng 10/2018 trả 1.840.000 đồng/tháng; riêng ngày 21/11/2018 trả số tiền 1.760.000 đồng.
Căn cứ hợp đồng tín dụng đã ký kết, Ngân hàng giải ngân bằng hình thức chuyển khoản qua tài khoản của bà T mở tại Ngân hàng vào ngày 21/11/2017 và bà T đã nhận đủ số tiền vay 20.000.000 đồng.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, tính đến ngày 30/3/2018, bà T trả được nợ gốc 6.283.078 đồng, tiền lãi 1.076.922 đồng và ngưng thanh toán từ ngày 31/3/2018 cho đến nay. Ngân hàng đã chuyển sang nợ quá hạn từ ngày 10/4/2018.
Tính đến ngày 25/02/2020, tổng số tiền gốc và lãi của bà T còn nợ lại Ngân hàng là 18.141.140 đồng; trong đó, nợ gốc 13.716.922 đồng, nợ lãi trong hạn 923.078 đồng, nợ lãi quá hạn 3.501.140 đồng.
Vì vậy, DBank yêu cầu bà T trả cho DBank số tiền nợ gốc 13.716.922 đồng, nợ lãi tạm tính đến ngày 25/02/2020 gồm: nợ lãi trong hạn 923.078 đồng, nợ lãi quá hạn 3.501.140 đồng và nợ lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng số 00893954/0135542601T17071 ngày 21/11/2017 trên số dư nợ chưa thanh toán kể từ ngày 26/02/2020 cho đến khi thi hành án xong. Trường hợp đến hạn trả nợ, bà T không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho DBank thì ông Nguyễn Văn T phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bà T.
Tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp chứng minh cho ý kiến, yêu cầu khởi kiện là: hợp đồng tín dụng cho vay trả góp số 00893954/0135542601T17071 ngày 21/11/2017 (bản photo); đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn ngày 06/11/2017 (bản photo); danh sách cho vay trả góp giải ngân qua tài khoản thẻ ngày 21/11/2017 (bản photo); danh sách khách hàng vay tiền mặt tại DBank ngày 06/11/2017 (bản photo) và các giấy tờ khác có liên quan.
- Bị đơn bà Lưu Thị T, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn T đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến. Tại phiên tòa, - Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày ý kiến như đã cung cấp trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Đồng thời, yêu cầu bà T trả cho DBank số tiền nợ gốc 13.716.922 đồng, tiền lãi tạm tính đến hết ngày 05/5/2020 gồm: tiền lãi trong hạn 923.078 đồng, tiền lãi quá hạn 3.915.059 đồng và tiền lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng số 00893954/0135542601T17071 ngày 21/11/2017 trên số dư nợ chưa thanh toán kể từ ngày 06/5/2020 cho đến khi thi hành án xong. Trường hợp đến hạn trả nợ, bà T không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho DBank thì ông T phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bà T.
- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:
Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại các Điều 70, 71, 234 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn bà Lưu Thị T, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà T, ông T là phù hợp với quy định tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về hướng giải quyết vụ án: Việc xác lập hợp đồng tín dụng số 00893954/0135542601T17071 ngày 21/11/2017 giữa DBank – Phòng Giao dịch C với bà T được tiến hành trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận và được giải ngân vào ngày 21/11/2017 với số tiền 20.000.000 đồng.
Sau khi vay, bà T trả được nợ gốc 6.283.078 đồng và tiền lãi 1.076.922 đồng rồi ngưng không trả tiếp.
Cho nên, việc Ngân hàng khởi kiện bà T yêu cầu trả nợ gốc và nợ lãi tính đến hết ngày 05/5/2020 với tổng số tiền 18.555.059 đồng, gồm nợ gốc 13.716.922 đồng, nợ lãi 4.838.137 đồng và tiếp tục tính lãi phát sinh theo hợp đồng ngày 21/11/2017 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ là phù hợp với quy định tại các Điều 463, 466, 468 Bộ luật Dân sự.
Về biện pháp bảo đảm, ông T là người bảo lãnh cho bà T vay tiền, trong trường hợp bà T không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng thì ông T phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bà T theo quy định tại các Điều 335, 342 Bộ luật Dân sự. Cho nên, việc Ngân hàng yêu cầu đối với ông T là có căn cứ.
Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 335, 342, 463, 466, 468 Bộ luật Dân sự, các Điều 91, 95 Luật các tổ chức tín dụng, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của DBank.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
* Về tố tụng:
[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: DBank khởi kiện yêu cầu bà Lưu Thị T trả nợ vay. Bà T đang cư trú trên địa bàn huyện C nên yêu cầu kiện của DBank thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Trước khi phiên tòa được mở, bà T, ông T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt. Cho nên, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà T, ông T theo quy định tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
* Về nội dung:
[3] Về việc xác lập và thực hiện hợp đồng vay tài sản:
Hợp đồng tín dụng số 00893954/0135542601T17071 ngày 21/11/2017 giữa DBank – Phòng giao dịch C với bà Lưu Thị T được ký kết trên cơ sở tự nguyện, hình thức và nội dung hợp đồng phù hợp với quy định tại Điều 463 Bộ luật Dân sự năm 2015, khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 nên phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng được ký kết.
Về thực hiện hợp đồng, trên cơ sở hợp đồng tín dụng số 00893954/0135542601T17071 ngày 21/11/2017, bà T được DBank giải ngân số tiền 20.000.000 đồng thông qua qua danh sách cho vay trả góp giải ngân qua tài khoản thẻ ngày 21/11/2017. Sau khi vay, bà T có trả cho Ngân hàng được số nợ vốn 6.283.078 đồng và nợ lãi 1.076.922 đồng rồi ngưng không thanh toán tiếp. Cho nên, bà T còn nợ DBank nợ vốn 13.716.922 đồng và nợ lãi tạm tính đến hết ngày 05/5/2020 là 4.838.137 đồng, trong đó, lãi trong hạn 923.078 đồng và lãi quá hạn 3.915.059 đồng.
[4] Về yêu cầu của nguyên đơn:
Do bà T vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên DBank khởi kiện yêu cầu bà T trả nợ là phù hợp với nội dung hợp đồng tín dụng đã ký kết, quy định tại các Điều 466, 470 Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 95 Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010.
Về biện pháp bảo đảm, theo văn bản đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn ngày 06/11/2017 do bà T lập, ông T cam kết, trường hợp bà T không thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ trả nợ, ông T sẽ trả nợ thay cho DongA Bank cho đến khi hết nợ.
Vì vậy, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của DBank; buộc bà T trả cho DBank nợ vốn 13.716.922 đồng và nợ lãi tạm tính đến hết ngày 05/5/2020 là 4.838.137 đồng, trong đó, lãi trong hạn 923.078 đồng, lãi quá hạn 3.915.059 đồng và tiền lãi phát sinh trên số nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong các hợp đồng tín dụng số 00893954/0135542601T17071 ngày 21/11/2017 kể từ ngày 06/5/2020 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ. Trường hợp, đến hạn trả nợ, bà T không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho DBank thì ông T phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bà T theo quy định tại các Điều 335, 342 Bộ luật Dân sự năm 2015.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm:
Bà T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền phải thanh toán cho DBank là 927.752 đồng.
DBank không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; hoàn lại cho DBank số tiền tạm ứng án phí 424.700 đồng mà DBank đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 335, 342, 463, 466, 470 Bộ luật Dân sự năm 2015; các Điều 91, 95 Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010; các Điều 147, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ.
Buộc bà Lưu Thị T có trách nhiệm trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ nợ vốn và lãi của khoản vay như sau:
- Tiền lãi tính đến hết ngày 05/5/2020: 4.838.137 (bốn triệu, tám trăm ba mươi tám nghìn, một trăm ba mươi bảy) đồng, trong đó, lãi trong hạn 923.078 (chín trăm hai mươi ba nghìn, không trăm bảy mươi tám) đồng và lãi quá hạn 3.915.059 (ba triệu, chín trăm mười lăm nghìn, không trăm năm mươi chín) đồng;
- Vốn gốc: 13.716.922 (mười ba triệu, bảy trăm mười sáu nghìn, chín trăm hai mươi hai) đồng và tiền lãi phát sinh đối với số nợ còn lại theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng số 00893954/0135542601T17071 ngày 21/11/2017 giữa Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ – Phòng Giao dịch C và bà Lưu Thị T kể từ ngày 06/5/2020 cho đến khi thanh toán xong.
Trường hợp đến hạn trả nợ, bà Lưu Thị T không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì ông Nguyễn Văn T phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ thay cho bà Lưu Thị T.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Lưu Thị T phải chịu 927.752 (bảy trăm hai mươi bảy nghìn, bảy trăm năm mươi hai) đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ số tiền tạm ứng án phí đã nộp 424.700 (bốn trăm hai mươi bốn nghìn, bảy trăm) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số TU/2017/0007716 ngày 20 tháng 12 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C.
3. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.
Riêng thời hạn kháng cáo của bà Lưu Thị T, ông Nguyễn Văn T được tính là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc b cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 29/2020/DS-ST ngày 05/05/2020 về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản
Số hiệu: | 29/2020/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 05/05/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về