Bản án 29/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO YÊN, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 29/2019/HS-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 29/2019/TLST-HS ngày 18 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2019/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Hoàng Văn C (Tên gọi khác: Không) - Sinh ngày 02/5/1973 tại huyện L, tỉnh Yên Bái;

Nơi cư trú: Tổ X thị trấn T, huyện Y, tỉnh Yên Bái.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Hoàng Văn H, sinh năm 1930 (đã chết) và con bà Lê Thị N, sinh năm 1932 (đã chết). Vợ: Đinh Ngọc C1 sinh năm 1979, đã ly hôn. Bị cáo có 01 con sinh năm 1998.

Tiền án: Bị cáo có 01 tiền án. Bản án số 34/2016/HSST ngày 16/9/2016 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Lào Cai xử phạt Hoàng Văn C 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Ngày 28/7/2018 bị cáo chấp hành xong hình phạt. Tiền sự: Không.

Nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu.

Quyết định số 28/QĐ ngày 20/4/2005 của Công an huyện Y, tỉnh Yên Bái xử phạt vi phạm hành chính Hoàng Văn C bằng hình thức cảnh cáo về hành vi tiêu thụ tài sản trộm cắp.

Quyết định số 12 ngày 17/5/2005 của Công an huyện Y, tỉnh Yên Bái xử phạt vi phạm hành chính Hoàng Văn C bằng hình thức cảnh cáo do vi phạm các quy định về phòng chống và kiểm soát ma tuý.

Quyết định số 76/XP-HC ngày 08/9/2005 của Công an tỉnh Yên Bái xử phạt vi phạm hành chính Hoàng Văn C bằng hình thức cảnh cáo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Quyết định số 174/QĐ-UBN ngày 12/5/2006 của UBND huyện Y, tỉnh Yên Bái đưa Hoàng Văn C vào trung tâm cai nghiện và lao động tỉnh Yên Bái thời gian 24 tháng.

Bản án số 23/2008/HST ngày 29/10/2008 của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Yên Bái xử phạt Hoàng Văn C 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 14/9/2010 bị cáo chấp hành xong hình phạt.

Quyết định số 313/Đ-UBND ngày 19/4/2011 của UBND huyện Y, tỉnh Yên Bái đưa Hoàng Văn C vào trung tâm chữa bệnh giáo dục lao động tỉnh Yên Bái thời gian 24 tháng. Ngày 19/4/2013 Hoàng Văn C chấp hành xong quyết định.

Quyết định số 74/Đ-XPVPHC ngày 17/7/2014 của Công an huyện Y, tỉnh Yên Bái xử phạt hành chính Hoàng Văn C bằng hình thức phạt tiền về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 11/10/2019, tạm giam ngày 17/10/2019, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện B, tỉnh Lào Cai. Có mặt.

Người làm chứng: Anh Nguyễn Trường S.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 11/10/2019, Hoàng Văn C đi xe ôm của Nguyễn Trường S (sinh năm 1957, địa chỉ: Tổ 6 thị trấn T, huyện Y, tỉnh Yên Bái) từ nhà lên thị trấn P, huyện B để mua ma túy về sử dụng. Khoảng 12 giờ cùng ngày lên đến thị trấn P, bị cáo liên lạc qua điện thoại với một người đàn ông không quen biết ở thị trấn P để hỏi mua ma túy, hai bên hẹn gặp nhau ở cầu Trắng thuộc tổ 1 thị trấn P. Trong lúc anh S đợi bị cáo ở ngã tư thị trấn P, bị cáo một mình đi lên cầu Trắng và gặp người đàn ông khoảng 35 tuổi, cao khoảng 1,65m mặc áo màu đen đi xe máy đến. C đưa cho người này 1.000.000đ và người đàn ông đưa cho C 01 gói nilon bên trong có 07 gói nhỏ, C lấy 01 gói nhỏ cất vào túi áo ngực bên trái còn 06 gói nhỏ trong túi nilon bị cáo cầm trên tay, sau đó bị cáo đi bộ về phía anh S đang đợi. Khi đi đến gần chỗ anh S thì bị cáo bị cơ quan công an kiểm tra, bị cáo đã tự giác giao nộp 07 gói nhỏ và khai nhận các gói nhỏ đều là heroine.

Tại kết luận giám định số 224/GĐMT ngày 15/10/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Lào Cai kết luận: Mẫu M1 (06 gói nhỏ bằng giấy màu bên trong đều chứa chất bột khô, màu trắng, vón cục) có khối lượng 0,91 gam là loại chất ma túy Heroine. Mẫu M2 (01 gói nhỏ bằng giấy màu bên trong chứa chất bột khô, màu trắng, vón cục) có khối lượng 0,07 gam là loại chất ma túy Heroine.

Tại bản cáo trạng số 27/CT-VKS ngày 18/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai truy tố bị cáo Hoàng Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Hoàng Văn C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng và không đề nghị gì. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về vật chứng, đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tuyên tịch thu tiêu hủy 0,86 gam ma túy còn lại sau giám định và tịch thu sung quỹ Nhà nước đối với chiếc điện thoại Nokia TA 1114.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Xét thấy trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp, đúng với quy định của pháp luật.

[2].Về tội danh: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Hoàng Văn C khai nhận do nghiện ma túy nên ngày 11/10/2019 bị cáo đã có hành vi tàng trữ ma túy để sử dụng cho bản thân. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án. Theo kết luận giám định, tổng trọng lượng ma túy đã thu giữ của bị cáo là 0,98 gam Heroine. Như vậy có đủ cơ sở để khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai truy tố bị cáo Hoàng Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Về hình phạt: Bị cáo Hoàng Văn C có năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo là người nghiện ma túy và có nhân thân xấu, từ năm 2005 đến nay đã nhiều lần vi phạm pháp luật bị xử phạt hành chính, xử lý hình sự và bị đưa đi cai nghiện tập trung nhưng không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân. Bị cáo đã có một tiền án nên hành vi phạm tội lần này của bị cáo được xác định là tái phạm, vì vậy cần phải có một mức án nghiêm khắc để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có tài sản gì nên xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Về các vấn đề có liên quan trong vụ án: Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo tại cầu Trắng thị trấn P, quá trình điều tra không xác định được căn cước lai lịch của người này nên cơ quan điều tra không đề cập xử lý là phù hợp. Đối với anh Nguyễn Trường S là người xe ôm chở bị cáo lên thị trấn P mua ma túy, quá trình điều tra không có đủ chứng cứ chứng minh anh S biết việc C đi mua ma túy nên cơ quan điều tra không đề cập xử lý là đúng pháp luật.

[7]. Về vật chứng của vụ án: Cơ quan điều tra đã thu giữ 0,98 gam Heroine, cơ quan giám định đã sử dụng 0,12 gam và hoàn lại 0,86 gam, xét thấy đây là vật chứng thuộc diện cấm lưu hành nên cần tuyên tịch thu tiêu hủy. Cơ quan điều tra đã thu giữ chiếc xe máy nhãn hiệu HondaWave Alpha màu trắng biển kiểm soát 21V6-4578. Quá trình điều tra xác định chiếc xe thuộc sở hữu của anh Nguyễn Trường S và đã xử lý trả lại cho anh S, xét thấy là đúng pháp luật. Ngoài ra cơ quan điều tra đã thu giữ của bị cáo chiếc điện thoại di động Nokia TA 1114. Xét thấy bị cáo đã sử dụng điện thoại làm phương tiên liên lạc với người đàn ông bán ma túy nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[8]. Về đề nghị của Kiểm sát viên, bị cáo: Xét thấy đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp với quy định pháp luật, về đề nghị hình phạt chính Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc để có mức hình phạt phù hợp với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo. Tại phiên tòa bị cáo không đề nghị gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9]. Về án phí: Bị cáo Hoàng Văn C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Hoàng Văn C 02 (Hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 11/10/2019.

2. Về vật chứng của vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 0,86 gam Heroine được niêm phong bằng bì thư của Phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Lào Cai. Bề mặt phong bì ghi: “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu giữ trong vụ án vụ Hoàng Văn C có hành vi phạm tội về ma túy. Phát hiện (thu giữ) ngày 11/10/2019 tại tổ dân phố 1, thị trấn phố Ràng, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai”.

Tịch thu chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia TA 1114 của Hoàng Văn C để sung vào ngân sách nhà nước.

3. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu phí, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Hoàng Văn C phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 29/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:29/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Yên - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;