Bản án 29/2019/HS-ST ngày 21/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KỲ SƠN, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 29/2019/HS-ST NGÀY 21/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 3 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 09/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 03 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Moong Văn T - Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 15/5/1989 tại xã N, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: bản HX, xã N, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: làm rẫy; trình độ văn hóa: lớp 9/12; dân tộc: Khơ mú; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Moong Phò L và bà Moong Mẹ L; có vợ là Lương Thị M và 02 (hai) con; tiền án, tiền sự: không; Bị bắt từ ngày 03/10/2018 đến nay, hiện đang tạm giam. Bị cáo có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ ngày 03/10/2018, Moong Văn T ngồi nhờ xe máy của một người đàn ông không quen biết đi từ nhà tại bản HX, xã N, huyện KS, tỉnh Nghệ An ra xã HT, huyện KS, tỉnh Nghệ An để mua đồ dùng gia đình. Sau khi mua đồ xong, Moong Văn T đi bộ về nhà, khi đi đến khu vực Tổng đội 8, xã HT, huyện KS thì có một người thanh niên không quen biết đi xe đạp theo sau và nói với Moong Văn T “mua giúp ba viên ma túy đi”, Moong Văn T hỏi lại “ba viên ma túy tổng hợp bao nhiêu tiền?”, người đó trả lời “ba viên là 120.000đ (một trăm hai mươi nghìn đồng)”, Moong Văn T đồng ý mua rồi lấy tiền đưa cho người thanh niên đó, người đó đưa lại cho Moong Văn T 03 (ba) viên ma túy tổng hợp được gói trong bao potylen màu trắng. Mua ma túy xong, Moong Văn T tiếp tục đi bộ về nhà, khi đi được một đoạn thì gặp Chích Văn Th (ở cùng bản) đang điều khiển xe máy thì Moong Văn T xin ngồi nhờ xe máy của Chích Văn Th. Khi Moong Văn T và Chích Văn Th về đến khu vực bản NB, xã HT, huyện KS, tỉnh Nghệ An thì bị tổ công tác Công an huyện Kỳ Sơn bắt quả tang, thu giữ trên bàn tay phải của Moong Văn T một gói potylen màu trắng bên trong có 03 viên nén màu hồng (nghi là ma túy tổng hợp).

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại vào hồi 15 giờ ngày 04/10/2018 đã xác định: Số viên nén màu hồng (nghi là ma tuý tổng hợp) thu giữ của Moong Văn T có khối lượng 0,3g (không phẩy ba gam). Hội đồng niêm phong đã tiến hành trích mẫu gửi giám định.

Tại kết luận giám định số 1138/KL-PC09(MT) ngày 09/10/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An đã kết luận: Mẫu viên nén màu hồng thu giữ của Moong Văn T gửi tới giám định là ma tuý (methamphetamine).

Bản cáo trạng số 18/CT-VKS-HS ngày 12 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An đã truy tố bị cáo Moong Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với các tình tiết như nội dung bản cáo trạng đã nêu, bị cáo khai mua ma túy về mục đích để sử dụng.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Moong Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Moong Văn T mức án từ 13 (Mười ba) đến 16 (Mười sáu) tháng tù, đề nghị miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: “Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt”.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được trong quá trình điều tra có tại hồ sơ vụ án, phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã quy kết nên có đủ cơ sở để kết luận: Vào ngày 03/10/2018, tại khu vực bản NB, xã HT, huyện KS, tỉnh Nghệ An bị cáo Moong Văn T bị bắt quả tang khi đang có hành vi tàng trữ 0,3g (không phẩy ba gam) ma tuý methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng. Hành vi đó của bị cáo Moong Văn T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định: “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a ) .......................

c) Methamphetamine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam .”

[2] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; nhân thân người phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các loại chất gây nghiện. Khi phạm tội bị cáo cũng nhận thức được ma túy bị Nhà nước cấm, vì ma túy gây tác hại xấu đến đời sống kinh tế xã hội cũng như sức khỏe của con người và cũng làm mầm mống phát sinh các tệ nạn xã hội và các tội phạm khác nhưng bị cáo vẫn bất chấp pháp luật để tàng trữ trái phép, vì vậy cần tuyên phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc, tương xứng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện, việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới đủ điều kiện để cải tạo, giáo dục riêng bị cáo vừa răn đe phòng ngừa chung. Tuy nhiên cũng xét thấy, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự. Xét thấy rằng, bị cáo là đối tượng nghiện hút, thu nhập chủ yếu từ nghề trồng trọt, không có tài sản nên cần miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

[3] Trong vụ án này còn có người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo quá trình điều tra chưa xác minh được tên tuổi và địa chỉ nên Cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh làm rõ, khi nào có kết quả sẽ được xử lý. Đối với anh Chích Văn Th là người đã cho bị cáo đi nhờ xe nhưng không biết bị cáo đang tàng trữ chất ma túy nên không có căn cứ xem xét trách nhiệm hình sự

[4] Về vật chứng vụ án: Số ma túy methamphetamine 0,3g (Không phẩy ba mươi gam) đã thu giữ của bị cáo, sau khi trích mẫu gửi giám định thì số còn lại là 0,2 g (Không phẩy hai gam) là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên phải tịch thu để tiêu hủy.

[5] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Kỳ Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[6] Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[7] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Về tội danh và mức hình phạt: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Moong Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Moong Văn T 14 (Mười bốn) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt (ngày 03/10/2018).

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) phong bì thư bưu điện có viền xanh đỏ, trên mép dán có đầy đủ chữ ký của Hội đồng tham gia niêm phong và chữ ký của bị cáo Moong Văn T, bên trong chứa 0,2 gam ma túy methamphetamine thu giữ của bị cáo, chi tiết được thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 14/01/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn và Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kỳ Sơn.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Moong Văn T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 29/2019/HS-ST ngày 21/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:29/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kỳ Sơn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;