Bản án 29/2019/HNGĐ-ST ngày 26/04/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 29/2019/HNGĐ-ST NGÀY 26/04/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 26 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 2427/2018/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 12 năm 2018, về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Hà Ngọc Anh K, sinh năm 1989; Thường trú: 210/2D, đường C, phường 10, Quận 3, thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị đơn:  Ông Trần Quốc D, sinh năm 1980; Thường trú: 40/16, khu phố 2, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

Tạm trú: 163D/14, tổ 28, khu phố 2, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

(Bà K và ông D có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai nguyên đơn bà Hà Ngọc Anh K trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Trần Quốc D kết hôn vào năm 2015 tại Ủy ban nhân dân phường 10, Quận 3, thành phố Hồ Chí Minh và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 04/12/2015.

Quá trình vợ chồng chung sống hạnh phúc thời gian đầu, sau đó đến cuối năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính cách và quan điểm sống của hai vợ chồng nhiều bất đồng, thường xuyên cãi vã, không tôn trọng lẫn nhau. Bà K đã nhiều lần cố gắng hàn gắn nhưng không có kết quả. Bà và ông D sống ly thân từ đầu năm 2017 cho đến nay. Nay bà K xác định tình cảm không còn nên xin ly hôn với ông Trần Quốc D.

Về con chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Theo bản tự khai - Bị đơn ông Trần Quốc D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông Trần Quốc D và bà Hà Ngọc Anh K kết hôn vào năm 2015 tại Ủy ban nhân dân phường 10, Quận 3, thành phố Hồ Chí Minh và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 04/12/2015 đúng như bà K trình bày.

Quá trình vợ chồng chung sống hạnh phúc thời gian đầu, sau đó thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính cách và quan điểm sống của hai vợ chồng nhiều bất đồng. Cả hai vợ chồng đã nhiều lần cố gắng hàn gắn nhưng không có kết quả. Ông bà sống ly thân từ đầu năm 2017 cho đến nay. Nay ông D xác định tình cảm không còn nên đồng ý ly hôn với bà Hà Ngọc Anh K.

Về con chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B:

Về việc kiểm sát chấp hành pháp luật tố tụng: Về quan hệ pháp luật, tư cách đương sự và thẩm quyền giải quyết, Tòa án đã xác định đúng theo quy định pháp luật. Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án đảm bảo theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Tòa án đã tiến hành đầy đủ các thủ tục theo quy định pháp luật.

Về việc giải quyết tranh chấp:

- Về quan hệ hoân nhaân: Căn cứ Điều 8, 9, 56, 57, 59 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận cho bà Hà Ngọc Anh K được ly hôn với ông Trần Quốc D.

- Về quan hệ con chung: Bà K và ông D trình bày không có nên không đặt ra giải quyết.

- Về tài sản chung và nợ chung: Bà K và ông D trình bày không có nên không đặt ra giải quyết.

Về án phí: Bà Hà Ngọc Anh K phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Bà Hà Ngọc Anh K khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Trần Quốc D; Căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xác định quan hệ pháp luật của vụ án là “Tranh chấp ly hôn”. Căn cứ vào Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự xác định bà Hà Ngọc Anh K là nguyên đơn còn ông Trần Quốc D là bị đơn trong vụ án.

- Theo bản sao y chứng thực sổ hộ khẩu, sổ tạm trú và tại Bản tự khai, đơn xin vắng mặt ngày 03/01/2019, ông Trần Quốc D xác định hiện nay ông có đăng ký thường trú tại địa chỉ 40/16, khu phố 2, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, và đang sinh sống tại địa chỉ 163D/14, tổ 28, khu phố 2, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Do đó, căn cứ các Điều 28, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự xác định vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

- Ngày 31/12/2018, bà Hà Ngọc Anh K có đơn xin xét xử vắng mặt; Ngày 03/01/2019, ông Trần Quốc D cũng có đơn xin xét xử vắng mặt, nên Tòa án xét xử vắng mặt bà K và ông D theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà K và ông D tự nguyện kết hôn vào năm 2015 tại Ủy ban nhân dân phường 10, Quận 3, thành phố Hồ Chí Minh và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 04/12/2015. Do đó, cần áp dụng các quy định tại Điều 8, 9 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, xác định đây là hôn nhân hợp pháp. Quá trình vợ chồng chung sống hạnh phúc thời gian đầu, sau đó đến cuối năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính cách và quan điểm sống của hai vợ chồng nhiều bất đồng, thường xuyên cãi vã, không tôn trọng lẫn nhau. Bà K và ông D đã nhiều lần cố gắng hàn gắn nhưng không có kết quả, ông bà cũng đã sống ly thân từ đầu năm 2017 cho đến nay. Nay bà K xác định tình cảm không còn, bà xin ly hôn với ông Trần Quốc D. Xét yêu cầu ly hôn của bà K là có cơ sở chấp nhận, bởi lẽ theo quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương, quý trọng chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau để cùng xây dựng gia đình hạnh phúc. Nhưng theo bà K và ông D trình bày ông bà chung sống phát sinh nhiều mâu thuẫn nên đã ly thân từ đầu năm 2017 đến nay, bà K yêu cầu ly hôn thì ông D đồng ý. Do đó, Tòa án căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận cho bà Hà Ngọc Anh K được ly hôn với ông Trần Quốc D.

[3] Về con chung: Bà K và ông D trình bày quá trình chung sống ông bà không có con chung nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà K và ông D trình bày quá trình chung sống ông bà không có tài sản chung và nợ chung nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bà Hà Ngọc Anh K phải nộp 300.000 đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 228, Điều 266, Điều 271 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Áp dụng các Điều 8, Điều 9, Điều 19, Điều 53, Điều 56, Điều 57, Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hà Ngọc Anh K, bà Hà Ngọc Anh K được ly hôn với ông Trần Quốc D.

Về con chung: Bà K và ông D trình bày quá trình chung sống ông bà không có con chung nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà K và ông D trình bày quá trình chung sống ông bà không có tài sản chung và nợ chung nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Hà Ngọc Anh K phải nộp 300.000đ án phí, được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 009576 ngày 13/11/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B. Bà K đã nộp đủ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm

Bà Hà Ngọc Anh K và ông Trần Quốc D có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 29/2019/HNGĐ-ST ngày 26/04/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:29/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;