Bản án 29/2019/HNGĐ-ST ngày 12/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN XƯƠNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 29/2019/HNGĐ-ST NGÀY 12/07/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 12 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 66/2019/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 4 năm 2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2019/QĐXX-ST ngày 12/6/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 20/2019/QĐ-HPT ngày 28/6/2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thanh N, sinh năm 1983.

Đa chỉ: Ngõ 213, đường N, thị trấn L, huyện K, tỉnh Hưng Yên.

- Bị đơn: Anh Tạ Khắc M, sinh năm 1984.

Đa chỉ: thôn G, xã H, huyện K, tỉnh Thái Bình

Chị N có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa, anh M vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 17/02/2019 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh N trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Nguyễn Thị Thanh N và anh Tạ Khắc M tự nguyện kết hôn có đăng ký kết hôn vào ngày 18/3/2018 tại UBND xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống ngõ 56/48 Thạch Cầu, Long Biên, Hà Nội. Ny sau khi kết hôn đã phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm trong chi tiêu kinh tế gia đình, vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Đến tháng 7/2018 thì chị N thuê nhà ở riêng, vợ chồng ly thân từ đó đến nay. Trong quá trình chị N thuê nhà ở riêng, anh M có đến gặp chị N đề nghị vợ chồng tiếp tục chung sống cùng nhau nhưng chị N không đồng ý. Khi chị N sinh con, anh M có đến thăm con và đề nghị chị N quay về đoàn tụ vợ chông nhưng chị N kiên quyết không về. Nay chị thấy không còn tình cảm với anh M, không thể tiếp tục chung sống cùng anh M nữa, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh M.

- Về quan hệ con chung: Chị N và anh M có 01 con chung là Tạ Tường V, sinh ngày 15/11/2018 hiện đang ở cùng chị N. Ly hôn chị N có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng chị N không có tài sản chung, không vay nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn là anh Tạ Khắc M: vắng mặt tại địa phương nên Tòa án không lấy được lời khai.

* Qua xác minh tại UBND xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình ngày 26/4/2019 cung cấp cho biết: Chị N và anh M đăng ký kết hôn tại UBND xã Hồng Thái. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống ở Hà Nội và có 01 con chung còn nhỏ hiện đang do chị N nuôi dưỡng. Nay chị N xin ly hôn thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Hiện nay anh M vẫn đăng ký hộ khẩu tại xã Hồng Thái huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

* Theo người làm chứng là ông Tạ Văn T và bà Triệu Thị H là bố mẹ anh Tạ Khắc M cho biết: vợ chồng cháu M cháu N tự nguyện đăng ký ký kết hôn tại UBND xã Hồng Thái huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình ngày 18/3/2018. Ny sau ngày tổ chức lễ cưới chị N và anh M lên Hà Nội sinh sống và chị N đã nhiều lần gọi điện về cho ông xin phép được ly hôn anh M. Hai bên gia đình đã khuyên bảo, động viên nhưng không có kết quả. Theo ông được biết thì khoảng tháng 4, 5/2018 ( dương lịch) chị N thuê nhà ở một mình, không chung sống cùng anh M cho đến nay. Ny sau khi nhận được văn bản tố tụng của Tòa án, ông đã gọi điện thoại thông báo cho anh M về việc chị N xin ly hôn. Anh M có quan điểm là anh M không bỏ vợ, bỏ con, ly hôn là việc của chị N. Hiện nay anh M vẫn đăng ký hộ khẩu thường trú cùng gia đình ông tại thôn G xã H huyện K. Anh M đang làm thuê ở Hà Nội nhưng ông bà không biết địa chỉ cụ thể nên không thể cung cấp địa chỉ cho Tòa án được, anh M vẫn thường xuyên về nhà thăm ông bà. Nếu anh M không đến Tòa án làm việc, đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt anh M. Mọi văn bản tố tụng của Tòa án ông sẽ nhận và có trách nhiệm giao hoặc thông tin lại cho anh M.

Tòa án đã gửi Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa cho ông T để ông T giao và thông tin Ny cho anh M. Ông T đã nhận các văn bản tố tụng nêu trên của Tòa án và cam kết thông tin lại nội dung các văn bản trên cho anh M. Ông T đã thông tin cho anh M biết về việc Tòa án báo anh M đến trụ sở để giải quyết việc chị N xin ly hôn. Nếu anh M không đến Tòa án, ông T đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt anh M theo quy định của pháp luật.

Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình có quan điểm cho rằng Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn đã chấp hành đúng pháp luật trong quá trình tham gia tố tụng. Bị đơn không tham gia tố tụng không những tự tước bỏ quyền, nghĩa vụ của mình mà còn thể hiện ý thức chấp hành pháp luật tố tụng dân sự không nghiêm túc, đầy đủ. Về ý kiến giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị:

Về quan hệ hôn nhân: Áp dụng các Điều 56, 58, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, chấp nhận cho chị N được ly hôn anh M.

Về quan hệ con chung: Giao con chung Tạ Tường V, sinh ngày 15/11/2018 cho chị Nguyễn Thị Thanh N trực tiếp nuôi dưỡng, chị N không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con chung. Anh M có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết .

Về án phí: Áp dụng Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án, chị N phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả thảo luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]- Về thủ tục tố tụng: Xét thấy, bị đơn là anh M có đăng ký hộ khẩu tại thôn G xã H huyện K tỉnh Thái Bình, hiện không có mặt tại địa phương nhưng vẫn liện hệ và vẫn về thăm gia đình nhưng không cung cấp địa chỉ cho nguyên đơn và Tòa án là thuộc trường hợp cố tình giấu địa chỉ. Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa cho bị đơn nhưng bị vắng mặt không có lý do và nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Vì vậy, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành xác minh thu thập chứng cứ để làm rõ tình trạng hôn nhân, điều kiện nuôi dưỡng con chung, tài sản chung vợ chồng và địa chỉ nơi cư trú của bị đơn, vì vậy Viện kiểm sát tham gia phiên toà là đúng với quy định tại Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, chị N và anh M tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 18/3/2018 tại UBND xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình là hôn nhân hợp pháp. Ny sau khi tổ chức lễ cưới được vài ngày thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, do bất đồng quan điểm sống. Từ tháng 7/2018 chị N đã đi thuê nhà ở riêng và sinh con, vợ chồng ly thân từ đó đến nay không quan tâm đến nhau. Trong thời gian chị N thuê nhà ở riêng thì anh M có đến thăm con và đề nghị chị N về chung sống cùng anh M nhưng chị N không về. Mâu thuẫn giữa vợ chồng chị N, anh M đã được hai bên gia đình khuyên giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Xét thấy, tình trạng hôn nhân của chị N và anh M là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải chấp nhận xử cho chị N được ly hôn anh M là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[4]Về quan hệ con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Tạ Tường V, sinh ngày 15/11/2018 hiện đang do chị N nuôi dưỡng. Xét thấy, hiện tại anh M không có mặt tại địa phương và cố tình giấu địa chỉ nên cần chấp nhận việc chị N đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con là phù hợp với quy định của pháp luật.

[5] Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Chị N trình bày vợ chồng không có tài sản chung, không vay nợ chung. Anh M chưa có lời khai tại Toà án, nên chưa có cơ sở xem xét giải quyết. Vì vậy Tòa án không đặt ra giải quyết về quan hệ tài sản.

[6] Về án phí: Chị N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 58, 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình 2014;

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Thanh N được ly hôn anh Tạ Khắc M.

2. Về quan hệ con chung: Giao con chung là Tạ Tường V, sinh ngày 15/11/2018 cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng. Chị N không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con chung. Anh M có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thanh N phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng, được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng tại biên lai thu tiền số 0001301 ngày 10/4/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Như vậy chị Nguyễn Thị Thanh N đã nộp xong án phí ly hôn sơ thẩm.

5. Về quyển kháng cáo: Chị N, anh M có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

295
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 29/2019/HNGĐ-ST ngày 12/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:29/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Xương - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;