TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUYÊN HOÁ, TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 29/2018/HS-ST NGÀY 26/12/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 26 tháng 12 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 28/2018/TLST- HS ngày 28 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2018/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo:
Trần Tuấn A; tên gọi khác “L”; sinh ngày 28 tháng 01 năm 2000 tại xã V, huyện T, tỉnh Quảng Bình; nơi cư trú: Thôn X, xã V, huyện T, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không tôn giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Quốc K và bà Lương Thị Kiều O; vợ, con: Chưa có; tiền sự: Không; tiền án: Không; nhân thân: Ngày 26/9/2018 có hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” đang bị cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình khởi tố vụ án, khởi tố bị can.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình từ ngày 30 tháng 9 năm 2018 đến nay (Theo lệnh trích xuất bị cáo có mặt tại phiên tòa).
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Mai Văn T, sinh năm 1989
Địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Bình (vắng mặt).
- Người làm chứng:
1. Anh Trần Minh S (vắng mặt).
2. Anh Hoàng Vương T (vắng mặt).
3. Anh Mai Văn Đ (vắng mặt).
- Người chứng kiến:
1. Anh Võ Hồng T (vắng mặt).
2. Anh Mai Văn H (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 22 giờ 45 phút ngày 29/9/2018, anh Mai Văn T và anh Hoàng Vương T cùng trú tại thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Bình dẫn Trần Tuấn A đến đồn Công an Tiến Hoá để báo cáo nội dung: Vào ngày 26/9/2018, Trần Tuấn A đến gặp anh Mai Văn Đ trú tại thôn T, xã T để mượn chiếc xe mô tô mang BKS 73D1-05637 (là xe của anh Mai Văn T) nhưng đến nay chưa trả nên anh Mai Văn T và anh Hoàng Vương T đưa Trần Tuấn A đến đồn Công an Tiến Hoá đề nghị giải quyết. Khi tiếp nhận vụ việc, lực lượng Công an huyện Tuyên Hoá tiến hành kiểm tra thì phát hiện trong túi quần phía trước, bên phải của Trần Tuấn A có 01 gói giấy chứa bên trong chất màu trắng ở thể rắn nghi là ma tuý nên đã lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.
Quá trình điều tra, Trần Tuấn A khai nhận: Khoảng 14 giờ ngày 26/9/2018, Trần Tuấn A điều khiển xe mô tô mang BKS 73D1-05637 (là xe của anh Mai Văn T) đến hiệu cầm đồ của anh Hồ Thế Q ở phường Q, thị xã B để cầm cố với giá 5.000.000đ (năm triệu đồng). Sau đó, Trần Tuấn A thuê nhà nghỉ tại thị xã B đến khoảng 14 giờ ngày 29/9/2018 Trần Tuấn A một mình đến khu vực chợ X thuộc thị xã B, A gặp một người phụ nữ có tên là L mua một gói ma tuý với giá 400.000 đ (bốn trăm nghìn đồng). Sau khi có được ma tuý, A lấy ra một ít để sử dụng. Số ma tuý còn lại A cất giấu trong túi quần phía trước, bên phải của mình rồi ra Quốc lộ 12A đón xe lên xã V. Khi Trần Tuấn A đang đứng ở cầu K thuộc thị xã B thì anh Mai Văn T và anh Hoàng Vương T đến đưa A về đồn Công an Tiến Hoá, huyện Tuyên Hoá để làm việc thì bị phát hiện và bắt giữ.
Tại Bản kết luận giám định số 1105/GĐ-PC09 ngày 30/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình kết luận: Một gói giấy chứa bên trong chất màu trắng ở thể rắn do cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tuyên Hoá thu giữ của Trần Tuấn A là heroine có tổng khối lượng 0,193 gam; quá trình giám định đã sử dụng hết 0,007 gam; lưu tại cơ quan giám định (mẫu sau giám định) 0,058 gam; hoàn trả lại cho cơ quan trưng cầu giám định là 0,128 gam và vỏ bao gói.
Vật chứng vụ án: 01 (một) phong bì ghi số 1105/GĐ-PC09 đã được niêm phong dán kín, có 3 dấu đỏ và 4 chữ ký trên mép dán; bên trong là ma tuý loại heroine khối lượng 0,128 gam và vỏ bao gói.
Hành vi của bị cáo đã được cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tuyên Hoá làm rõ.
Bản Cáo trạng số: 28/CT-VKSTH ngày 28 tháng 11 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình đã truy tố bị cáo Trần Tuấn A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hoá phát biểu ý kiến giữ nguyên quan điểm truy tố và luận tội, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Trần Tuấn A từ 12 đến 18 tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 30/9/2018.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tịch thu và tiêu huỷ 01 (một) phong bì ghi số 1105/GĐ-PC09 đã được niêm phong dán kín, có 3 dấu đỏ và 4 chữ ký trên mép dán; bên trong là ma tuý loại heroine khối lượng 0,128 gam và vỏ bao gói.
Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Trần Tuấn A phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, nội dung khai báo của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, không có tình tiết mới. Bị cáo nhất trí với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hoá, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình và của Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy trình điều tra, truy tố và thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật nên không xem xét gì thêm.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Mặc dù nhận thức rõ việc tàng trữ trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng Trần Tuấn A vẫn đi mua ma tuý loại chế phẩm heroine nhằm mục đích sử dụng. Khi đang giấu ma tuý trong người thì bị phát hiện và bắt quả tang. Số ma tuý Trần Tuấn A tàng trữ là heroine có trọng lượng 0,193 gam.
Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo Trần Tuấn A đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội đó phù hợp với lời khai của người làm chứng có trong hồ sơ vụ án và các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, tài liệu về thời gian, địa điểm, loại ma tuý và trọng lượng của chất ma tuý, ý kiến của Kiểm sát viên. Do đó có đủ cơ sở khẳng định Trần Tuấn A đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đúng như Bản cáo trạng và Quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hoá.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trần Tuấn A không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.
[5] Về mức án mà Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hoá đề nghị xử phạt bị cáo Trần Tuấn A từ 12 đến 18 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
Hội đồng xét xử xét thấy: Trần Tuấn A có sức khoẻ nhưng không chịu khó lao động, rèn luyện bản thân mà ham chơi, đua đòi nên đã sa vào nghiện ngập nên đã mua ma tuý về để sử dụng, phục vụ nhu cầu cá nhân. Hành vi của Trần Tuấn A đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với các loại ma tuý. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội cần được xử lý nghiêm. Ngoài ra, ngày 26/9/2018 Trần Tuấn A còn có hành vi “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và đang bị cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Vì vậy cần áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để có mức án tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra đồng thời cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có điều kiện cải tạo và sửa chữa lỗi lầm của mình, trở thành người có ích cho gia đình và hội; thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật, nhằm mục đích giáo dục phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên Hội đồng xét xử cần xem xét cho bị cáo quá trình điều tra và tại phiên toà đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải vì vậy cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, đúng với chính sách nhân đạo của pháp luật và phù hợp với đề nghị mức án của đại diện Viện kiểm sát.
Về nguồn gốc số ma tuý Trần Tuấn A mua của một người phụ nữ tên L tại khu vực chợ X, thị xã B, tỉnh Quảng Bình quá trình điều tra không xác định được địa chỉ cụ thể nên không có cơ sở để xử lý. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về vật chứng vụ án: 01 (một) phong bì ghi số 1105/GĐ-PC09 đã được niêm phong dán kín, có 3 dấu đỏ và 4 chữ ký trên mép dán; bên trong là ma tuý loại heroine khối lượng 0,128 gam và vỏ bao gói. Đây là vật chứng không có giá trị và vật Nhà nước cấm lưu hành cần áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tịch thu, tiêu huỷ.
[8] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án buộc bị cáo Trần Tuấn A phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Tuấn A phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".
Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trần Tuấn A 12 (mười hai) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 30/9/2018. Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày theo Quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử để đảm bảo thi hành án.
2. Vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tịch thu, tiêu huỷ 01 (một) phong bì ghi số 1105/GĐ-PC09 đã được niêm phong dán kín, có 3 dấu đỏ và 4 chữ ký trên mép dán; bên trong là ma tuý loại heroine khối lượng 0,128 gam và vỏ bao gói.
3. Án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án buộc bị cáo Trần Tuấn A phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, vắng mặt người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Tuyên bố bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 26/12/2018). Đối với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan thời hạn kháng cáo kể từ ngày nhận được bản sao bản án.
Bản án 29/2018/HS-ST ngày 26/12/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 29/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tuyên Hóa - Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/12/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về