TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO LẠC, TỈNH CAO BẰNG
BẢN ÁN 29/2018/HS-ST NGÀY 18/10/2018 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM
Vào các ngày 17 và 18 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 23/2018/TLST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2018/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 10 năm 2018 đối với:
Bị cáo: Tẩn Dấu C; sinh ngày 02 tháng 10 năm 1986; Nơi sinh: xã C, huyện B, tỉnh Cao Bằng;
Nơi cư trú: Lũng C, xóm P, xã C, huyện B, tỉnh Cao Bằng;
Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: 02/12; Dân tộc: Dao; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam;
Con ông: Tẩn Quán S sinh năm 1965 và bà Phủng Sán M sinh năm 1965; Vợ: Phủng Tả M sinh năm 1982; Con: Bị cáo có hai con, con lớn sinh năm 2001, con nhỏ sinh năm 2003;
Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Không.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 09/6/2018 đến nay (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).
* Người bào chữa cho bị cáo Tẩn Dấu C: Ông Nông Văn S1, Trợ giúp viên pháp lý của trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Cao Bằng (Có mặt tại phiên tòa).
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Anh: Tẩn Láo L, sinh ngày 09/8/2003, nơi cư trú: xóm P, xã C, huyện B, tỉnh Cao Bằng (Có mặt tại phiên tòa).
Người đại diện của anh Tẩn Láo L là bà Phủng Tả Mẩy (mẹ đẻ), sinh năm 1982, nơi cư trú: Lũng C, xóm P, xã C, huyện B, tỉnh Cao Bằng (Có mặt tại phiên tòa).
- Ông: Tẩn Quán S, sinh năm 1963, nơi cư trú: Lũng C, xóm P, xã C, huyện B, tỉnh Cao Bằng (Có mặt tại phiên tòa).
* Người phiên dịch: Ông Phùng Tòn C1, sinh năm 1984, nơi cư trú: xóm K, xã H, huyện B, tỉnh Cao Bằng (Có mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 21 giờ 15 phút ngày 13/3/2018 tại xóm Nà Lùng, xã C, huyện B, tỉnh Cao Bằng, Tổ công tác Công an huyện Bảo Lạc phối hợp với Đồn biên phòng Cô Ba làm nhiệm vụ thì bắt quả tang đối tượng Tẩn Dấu C, sinh năm 1986, trú tại Lũng C, xóm P, xã C, huyện B, tỉnh Cao Bằng điều khiển xe máy Honda Wave RSX biển kiểm soát 11L1-1015 vận chuyển trái phép 02 (Hai) bao tải chứa 60 (Sáu mươi) hộp pháo loại 36 (Ba mươi sáu) ống được bọc bằng giấy màu đỏ có chữ Trung Quốc. C khai nhận ngoài C chở số pháo trên còn có con trai của C tên là Tẩn Láo L giúp C chở 02 (Hai) bao tải pháo đi từ nhà C xuống thị trấn Bảo Lạc, huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng. Tổ công tác tiến hành truy đuổi và bắt được Tẩn Láo L đang điều khiển xe máy Honda Wave biển kiểm soát 11F6-4085 chở 02 (Hai) bao tải chứa 34 (Ba mươi tư) hộp pháo loại 36 (Ba mươi sáu) ống được bọc bằng giấy màu đỏ có chữ Trung Quốc. Các vật chứng thu giữ được từ Tẩn Dấu C và Tẩn Láo L bao gồm: 04 (Bốn) bao tải chứa 94 (Chín mươi tư) hộp pháo loại 36 (Ba mươi sáu) ống được bọc bằng giấy màu đỏ có chữ Trung Quốc; 01 (Một) xe máy Honda Wave RSX biển kiểm soát 11L1-1015; 01 (Một) xe máy Honda Wave biển kiểm soát 11F6-4085; 01 (Một) giấy đăng ký mô tô, xe máy mang tên Tô Minh T1; 01 (Một) giấy đăng ký mô tô, xe máy mang tên Triệu Thị T2; 01 (Một) giấy chứng minh nhân dân mang tên Tẩn Dấu C; 01 (Một) điện thoại di động Samsung màu đen có số Imei1: 3562808090256736; số tiền 3.000.000đ (Ba triệu đồng).
Ngày 14/3/2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bảo Lạc cân xác định 60 (Sáu mươi) hộp pháo thu giữ của Tẩn Dấu C có trọng lượng là 78kg (Bảy mươi tám kilôgam), 34 (Ba mươi tư) hộp pháo thu giữ của Tẩn Láo L có trọng lượng là 44kg (Bốn mươi bốn kilôgam), tổng trọng lượng 94 (Chín mươi tư) hộp pháo bị thu giữ là 122kg (Một trăm hai mươi hai kilôgam). Đồng thời trích 02 (Hai) hộp pháo để làm mẫu gửi giám định. Tại bản kết luận giám định số 1601/C54-P2 ngày 23/3/2018 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Các mẫu vật gửi giám định đều là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo, khi đốt hoặc kích thích có gây tiếng nổ).
Tại cơ quan điều tra, Tẩn Dấu C khai nhận: Ngày 12/3/2018 tại chợ thị trấn B huyện B tỉnh Cao Bằng, C gặp một người đàn ông tên T quê ở Hà Giang (không biết họ, địa chỉ cụ thể) và được Thắng thuê vận chuyển pháo từ biên giới Việt Nam - Trung Quốc về thị trấn B huyện B với thù lao là 3.000.000đ (Ba triệu đồng), C đồng ý. Đến ngày 13/3/2018, T gọi điện thoại cho C đi chở pháo. C một mình điều khiển xe máy Honda Wave RSX biển kiểm soát 11L1-1015 đi từ nhà đến Mốc 581 thuộc xóm P, xã C, huyện B, tỉnh Cao Bằng gặp một người đàn ông Trung Quốc đứng đợi gần 04 (Bốn) bao tải pháo. C buộc 02 (Hai) bao tải pháo lên xe và chở về đến nhà rồi quay lại biên giới chở tiếp 02 (Hai) bao tải pháo. Khi về đến gần nhà C nói với Tẩn Láo L giúp chở 02 (Hai) bao hàng đang để ở nhà xuống thị trấn Bảo Lạc, L đã điều khiển xe máy Honda Wave biển kiểm soát 11F6-4085 chở 02 (Hai) bao tải pháo này đi trước. Khi đến khu vực xóm L, xã C, huyện B, tỉnh Cao Bằng thì bị phát hiện, bắt quả tang.
Tại bản Cáo trạng số 24/CT-VKSBL ngày 13/9/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng đã truy tố bị cáo Tẩn Dấu C về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm c khoản 3 Điều 191 Bộ luật Hình sự 2015.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lạc giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm c khoản 3 Điều 191 Bộ luật Hình sự 2015 tuyên bố bị cáo Tẩn Dấu C phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.
Căn cứ điểm c khoản 3 Điều 191; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015. Xử phạt bị cáo Tẩn Dấu C với khung hình phạt từ 05 (Năm) đến (Sáu) năm tù.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Tịch thu tiêu hủy: 92 (Chín mươi hai) hộp pháo được bọc bằng giấy màu đỏ có chữ Trung Quốc loại 36 ống; Tịch thu phát mại sung vào ngân sách Nhà nước đối với 01 (một) chiếc xe máy Honda Wave RSX biển kiểm soát 11L1-1015 có Giấy đăng ký mô tô, xe máy mang tên Tô Minh T1 và 01(một) điện thoại di động Samsung có số Imei1: 3562808090256736 của Tẩn Dấu C; Trả lại cho ông Tẩn Quán S 01 (một) xe máy Honda Wave biển kiểm soát 11F6-4085 có giấy đăng ký mô tô, xe máy mang tên Triệu Thị T2; Tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước số tiền 3.000.000đ (Ba triệu đồng); Trả lại cho bị cáo 01(một) Giấy chứng minh nhân dân mang tên Tẩn Dấu C.
Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Bị cáo Tẩn Dấu C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Đối với người đàn ông tên Thắng thuê bị cáo Tẩn Dấu C chở pháo với số tiền 3.000.000đ (Ba triệu đồng) và người đàn ông Trung Quốc đưa pháo cho C tại Mốc 581 đều không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bảo Lạc không xác định được đối tượng là ai, không có căn cứ tiến hành truy xét.
Đối với Tẩn Láo L sinh ngày 09/8/2003 được C gọi đi chở giúp hàng, không biết trong bao tải là pháo, chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bảo Lạc đã giao cho chính quyền xã C, huyện B, tỉnh Cao Bằng quản lý, giáo dục.
Tại phiên tòa bị cáo Tẩn Dấu C và người bào chữa cho bị cáo yêu cầu xem xét vật chứng và cân xác định trọng lượng vật chứng của vụ án. Hội đồng xét xử đã tiến hành trích xuất vật chứng xem xét và cân xác định trọng lượng vật chứng tại phiên tòa. Tổng trọng lượng vật chứng khi cân xác định là 123kg (Một trăm hai mươi ba kilôgam)
Người bào chữa cho bị cáo Tẩn Dấu C trình bày quan điểm: Nhất trí với bản Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo Tẩn Dấu C về tội "Vận chuyển hàng cấm". Tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến điều kiện, hoàn cảnh dẫn đến hành vi phạm tội, bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, ít học, hiểu biết xã hội và pháp luật còn hạn chế. Nhân thân tốt, thật thà khai báo, ăn năn hối cải. Phạm tội lần đầu, đã tự nguyện giao nộp lại toàn bộ số tiền thu lợi bất chính. Tích cực hợp tác với cơ quan chức năng đối với việc khai nhận ra hành vi của Tẩn Láo L. Nên đề nghị hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015.
Đối với khung hình phạt theo truy tố của Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến vật chứng mà bị cáo Tẩn Dấu C trực tiếp vận chuyển là 60 (Sáu mươi) hộp pháo có trọng lượng là 78kg (Bảy mươi tám kilogam). Nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng Điều 54; Điều 65; khoản 2 Điều 191 Bộ luật Hình sự 2015 xử phạt bị cáo với khung hình phạt là 03 năm tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo.
Về vật chứng của vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trả lại chiếc xe máy và điện thoại di động cho vợ bị cáo vì xác định là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Bị cáo Tẩn Dấu C nhận thấy hành vi của mình là sai, vi phạm pháp luật xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Đối với quan điểm của Người bào chữa tại phiên tòa về tình tiết giảm nhẹ đề nghị áp dụng đối với với bị cáo tại điểm t khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo bị bắt quả tang về hành vi vận chuyển hàng cấm được áp dụng tình tiết "người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải" nên không có căn cứ cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm t khoản 1 "người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án".
Đối với quan điểm đề nghị xem xét áp dụng Điều 54; Điều 65; khoản 2 Điều 191 Bộ luật Hình sự 2015 xử phạt bị cáo với khung hình phạt bị cáo 03 (Ba) năm tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo. Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi vận chuyển hàng cấm của bị cáo bị truy tố có tổng trọng lượng là 122 kg (Một trăm hai mươi hai kilogam) nên không có căn cứ để xem xét áp dụng tình tiết này đối với bị cáo.
Đối với đề nghị xử lý vật chứng trả lại xe máy và điện thoại cho vợ của bị cáo là Phủng Tả M, trong quá trình điều tra bị cáo thừa nhận xe máy và điện thoại là của bị cáo dùng làm phương tiện liên lạc và vận chuyển hàng cấm nên không có căn cứ để trả lại cho vợ bị cáo những tài sản này.
[3] Bị cáo Tẩn Dấu C thừa nhận bản Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là đúng. Hội đồng xét xử xét thấy lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với vật chứng thu giữ được và các chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.
Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự đối với hành vi do mình gây ra. Bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Cụ thể: Bị cáo Tẩn Dấu C được một người đàn ông tên T thuê vận chuyển pháo từ Mốc 581 thuộc xóm P, xã C, huyện B, tỉnh Cao Bằng về thị trấn Bảo Lạc, huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng để nhận số tiền công là 3.000.000đ (Ba triệu đồng). Ngày 13/3/2018 tại khu vực xóm Nà Lùng, xã C, huyện B, tỉnh Cao Bằng bị cáo Tẩn Dấu C đang có hành vi vận chuyển pháo thì bị phát hiện, bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng. Hành vi của bị cáo đã xâm hại trực tiếp đến quy định của Nhà nước về quản lý hàng cấm.
Theo quy định tại Điều 191 Bộ luật hình sự 2015:
“1. Người nào tàng trữ, vận chuyển hàng cấm thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 232, 234, 239, 244, 246, 249, 250, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:...
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:...
c) Pháo nổ 120 kilôgam trở lên; ...;”
Như vậy hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Vận chuyển hàng cấm. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo Tẩn Dấu C về tội Vận chuyển hàng cấm theo điểm c khoản 3 Điều 191 Bộ luật Hình sự 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[4] Về nhân thân người phạm tội: Bị cáo Tẩn Dấu C sinh ngày 02/10/1986, học hết lớp 03/12 phổ thông, là Đảng viên sinh hoạt tại Chi bộ xóm P, xã C, huyện B, tỉnh Cao Bằng. Bị cáo nhận thức được pháo nổ là hàng cấm và vận chuyển pháo nổ là vi phạm pháp luật nhưng vì hám lợi bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết xử lý bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc phù hợp với tính chất mức độ hành vi phạm tội, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo. Tuy nhiên bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự nên sẽ được xem xét khi quyết định hình phạt. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015.
[5] Về xử lý vật chứng: Đối với vật chứng vụ án là 92 (Chín mươi hai) hộp pháo được bọc bằng giấy màu đỏ có chữ Trung Quốc, loại 36 (Ba mươi sáu) ống là hàng cấm cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với chiếc xe máy Honda Wave RSX biển kiểm soát 11L1-1015 có giấy đăng ký mô tô, xe máy mang tên Tô Minh T1 tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa xác định đây là chiếc xe máy bị cáo Tẩn Dấu C mua lại với bà Lục Thị S1 (là vợ của ông Tô Minh T1 đã chết năm 2011) từ năm 2016. Bị cáo đã sử dụng chiếc xe máy trên làm phương tiện vận chuyển pháo nổ, do đó cần tịch thu phát mại nộp vào ngân sách nhà Nước.
Đối với chiếc xe máy Honda Wave biển kiểm soát 11F6-4085 có giấy đăng ký mô tô, xe máy mang tên Triệu Thị T2 tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa xác định đây là chiếc xe máy ông Tẩn Quán S mua lại với bà Triệu Thị T2 từ năm 2004. Ngày 13/3/2018 ông S không ở nhà nên không biết anh Tẩn Láo L (cháu nội) mang chiếc xe máy đi đâu, làm gì. Tại phiên tòa ông S yêu cầu được trả lại chiếc xe máy trên. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của ông S là có căn cứ nên được chấp nhận.
Đối với chiếc điện thoại di động Samsung có số Imei1: 3562808090256736: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa xác định đây là điện thoại di động của bị cáo Tẩn Dấu C, bị cáo đã sử dụng chiếc điện thoại di động này để liên lạc với người đàn ông tên Thắng và liên lạc với anh Tẩn Láo L về việc vận chuyển pháo, do đó cần tịch thu phát mại sung vào ngân sách Nhà nước.
Đối với số tiền 3.000.000đ (Ba triệu đồng) bị thu giữ, tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa xác định đây là số tiền bị cáo Tẩn Dấu C có được do vận chuyển pháo nổ cho người đàn ông tên Thắng, do đó cần tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước.
Đối với Giấy chứng minh nhân dân mang tên Tẩn Dấu C là giấy tờ tùy thân của bị cáo cần trả lại cho bị cáo.
Toàn bộ vật chứng trên hiện lưu tại Kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 13 tháng 9 năm 2018.
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm c khoản 3 Điều 191 Bộ luật Hình sự 2015; sửa đổi bổ sung 2017. Tuyên bố bị cáo Tẩn Dấu C phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.
Căn cứ điểm c khoản 3 Điều 191; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015; sửa đổi bổ sung 2017. Xử phạt bị cáo Tẩn Dấu C 05 (Năm) năm tù. Thời gian thụ hình được tính từ ngày bị cáo vào trại thụ hình.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015; sửa đổi bổ sung 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
- Tịch thu tiêu hủy: 92 (Chín mươi hai) hộp pháo được bọc bằng giấy màu đỏ có chữ Trung Quốc, loại 36 (Ba mươi sáu) ống.
- Tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước: Số tiền 3.000.000đ (Ba triệu đồng).
- Tịch thu phát mại nộp vào ngân sách Nhà nước: 01(Một) Xe máy nhãn hiệu Honda Wave RSX màu đen-đỏ, biển kiểm soát 11L1-1015, số khung 075689, số máy 5528965, xe cũ đã qua sử dụng, có 01 (Một) Giấy đăng ký mô tô, xe máy mang tên Tô Minh T1; 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen số Imei1: 3562808090256736, điện thoại cũ, đã qua sử dụng.
- Trả lại cho bị cáo Tẩn Dấu C: 01(Một) Giấy chứng minh nhân dân mang tên Tẩn Dấu C.
- Trả lại cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Tẩn Quán S, trú tại: Lũng C, xóm P, xã C, huyện B, tỉnh Cao Bằng; 01 (Một) Xe máy nhãn hiệu Honda Wave biển kiểm soát 11F6-4085, số khung 571744, số máy 0571356, xe cũ đã qua sử dụng; 01(Một) Giấy đăng ký mô tô, xe máy mang tên Triệu Thị T2.
Toàn bộ vật chứng trên hiện lưu tại Kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 13 tháng 9 năm 2018.
3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Bị cáo Tẩn Dấu C phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm nộp vào ngân sách Nhà nước.
Án xử sơ thẩm có mặt bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và người đại diện. Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người đại diện có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 29/2018/HS-ST ngày 18/10/2018 về tội vận chuyển hàng cấm
Số hiệu: | 29/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bảo Lạc - Cao Bằng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/10/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về