TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÀU BÀNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 29/2018/HNGĐ-ST NGÀY 16/08/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 16 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 86/2018/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 4 năm 2018 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 7 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 27/2018/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 7 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Ngọc T, sinh năm 1986; địa chỉ: ấp B, xã H, huyện B, tỉnh Bình Dương; có mặt.

- Bị đơn: Anh Ôn Văn M, sinh năm 1985; địa chỉ: ấp B, xã H, huyện B, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại Đơn khởi kiện đề ngày 22 tháng 3 năm 2018 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Trần Thị Ngọc T trình bày:

Về hôn nhân: Chị T và anh M sống chung năm 2008 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương vào ngày 02 tháng 10 năm 2008 (Giấy Chứng nhận kết hôn số 81, quyển số 01). Vợ chồng sống hạnh phúc trong thời gian đầu, nhưng về sau phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh M ham chơi, thường xuyên đánh bạc không còn quan tâm đến gia đình vợ con. Nay chị T không thể tiếp tục chung sống với anh M nên chị T yêu cầu ly hôn anh M.

Về nuôi con chung: vợ chồng có một con chung tên Ôn Thị Thảo N, sinh ngày 18 tháng 4 năm 2012, hiện con chung đang ở với chị T. Chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh M cấp dưỡng.

Về chia tài sản và nợ chung: chị T không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Ôn Văn M đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để lấy lời khai, họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải và tham gia phiên tòa nhưng anh M đều vắng mặt không lý do nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của anh M.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và về việc giải quyết vụ án: quá trình giải quyết vụ án, việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Riêng bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt theo quy định điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng, Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp, thẩm quyền giải quyết vụ án: chị Trần Thị Ngọc T khởi kiện anh Ôn Văn M về ly hôn, tranh chấp về nuôi con; anh Ôn Văn M có nơi cư trú tại ấp B, xã L, huyện B, tỉnh Bình Dương nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về tố tụng: Tòa án triệu tập hợp lệ anh Ôn Văn M lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng anh M vẫn vắng mặt không lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh M. Nguyên đơn chị Trần Thị Ngọc T có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về yêu cầu của nguyên đơn:

Về hôn nhân: hôn nhân của chị T và anh M là hôn nhân hợp pháp, vợ chồng chung sống đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do Mạnh ham mê cờ bạc, không còn quan tâm đến gia đình vợ con. Theo Biên bản xác minh ngày 13 tháng 4 năm 2017 do Tòa án lập (bút lục số 19), tình trạng hôn nhân của chị T và anh M phù hợp với lời trình bày của chị T tại Tòa. Chị T và anh M ly thân từ năm 2015 đến nay. Xét, chị T và anh M là vợ chồng nhưng không tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, không sống chung với nhau từ tháng 6 năm 2016 đến nay là vi phạm Điều 19 của Luật Hôn nhân và Gia đình. Nay, chị T không muốn tiếp tục chung sống với anh M nên chị T khởi kiện yêu cầu ly hôn anh M theo quy định tại khoản 1 Điều 51 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Xét thấy, tình trạng hôn nhân của chị T và anh M đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được; căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T, quyết định cho chị T và anh M ly hôn.

Về nuôi con chung: chị T và anh M có một con chung tên Ôn Thị Thảo N, sinh ngày 18 tháng 4 năm 2012, cháu N đang sống cùng chị T; chị T yêu cầu được nuôi con chung và không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con chung.

Xét, yêu cầu này của chị T là hoàn toàn phù hợp, đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của cháu N; căn cứ khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận, chị T được quyền tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung, về cấp dưỡng, chị T không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Anh M có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở theo quy định tại khoản 3 Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Về chia tài sản và nợ chung: chị T không tranh chấp nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[4] Xét ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa về việc tuân theo pháp luật tố tụng và về việc giải quyết vụ án là phù hợp.

[5] Về án phí: chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật;

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 19, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 1 Điều 6 và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị Trần Thị Ngọc T.

- Về hôn nhân: cho ly hôn giữa chị Trần Thị Ngọc T và anh Ôn Văn M.

- Về nuôi con chung: Chị Trần Thị Ngọc T được quyền chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung cháu Ôn Thị Thảo N, sinh ngày 18 tháng 4 năm 2012. Anh Ôn Văn M không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh Ôn Văn M có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp anh M lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị T có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh M.

Vì quyền và lợi ích hợp pháp của con. Tòa án có thể thay đổi người nuôi con, giải quyết việc cấp dưỡng cho con theo quy định của pháp luật.

- Về chia tài sản chung và nợ chung: Chị Trần Thị Ngọc T không tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xem xét.

2. Về án phí: Chị Trần Thị Ngọc T phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền án phí hôn nhân sơ thẩm, nhưng được khấu trừ 300.000 (ba trăm nghìn) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2016/0002328 ngày 03 tháng 4 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, tỉnh Bình Dương.

3. Về quyền kháng cáo: nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết công khai.

4. Về nghĩa vụ thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Số hiệu:29/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bàu Bàng - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;