TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÒA BÌNH
BẢN ÁN 29/2017/HSST NGÀY 28/09/2017 VỀ TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM
Ngày 28 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 27/2017/HSST ngày 31 tháng 8 năm 2017 đối với:
Bị cáo: Bùi Xuân T (tên gọi khác là “Ngắn”), sinh ngày 03 tháng 9 năm 1999 tại thành phố H, tỉnh Hòa Bình (đến ngày phạm tội bị cáo 15 tuổi 02 tháng 21 ngày)
Trú tại: Số nhà 78, tổ 19, phường Đ, thành phố H, tỉnh Hòa Bình; Nghề nghiệp: Học sinh; Dân tộc: Kinh, Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 8/12; Con ông Bùi Ngọc S, sinh năm 1966 và bà Nguyễn Thị G, sinh năm 1973; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ ngày 24/11/2014, chuyển tạm giam từ ngày 02/12/2014 đến ngày 05/5/2015 hủy bỏ biện pháp tạm giam và áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh tại Viện giám định tâm thần Trung ương, đến ngày 12/6/2017 đình chỉ việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh, tiếp tục bắt để tạm giam, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hòa Bình
Bị cáo được trích xuất, có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Lỗ Hữu T, văn phòng luật sư Lỗ Hữu T, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Hòa Bình; có mặt tại phiên tòa.
Người bị hại: Cháu Nguyễn Thị Thanh H, sinh ngày 04/10/2010
Đại diện hợp pháp của người bị hại: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1989; Đều có HKTT tại: Thôn C, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Hòa Bình. Có mặt tại phiên tòa.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Nguyễn Thị G, sinh năm 1973
Địa chỉ: Số nhà 78, tổ 19, phường Đ, thành phố H, tỉnh Hòa Bình. Có mặt.
NHẬN THẤY
Bị cáo Bùi Xuân T bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Vào khoảng 09 giờ ngày 24/11/2014, Bùi Xuân T, sinh năm 1999 trú tại số nhà 78, tổ 19, phường Đ, thành phố H, tỉnh Hòa Bình là học sinh lớp 8 Bùi Xuân T Trung học cơ sở Đ, thành phố H được nghỉ học buổi sáng ở nhà và bán hàng cho bố mẹ tại gia đình thì có anh Nguyễn Thế D, sinh năm 1966 trú tại Thôn C, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Hòa Bình cùng con gái là cháu Nguyễn Thị Thanh H, sinh ngày 04/10/2010 đến nhà Bùi Xuân T chơi (vì hai gia đình có mối quan hệ quen biết nhau). Sau đó, anh Nguyễn Thế D đi ra ngồi uống nước trước cửa quán nhà Bùi Xuân T còn cháu H đi vào nhà chơi cùng với Bùi Xuân T ở phòng khách, sau khi chơi được khoảng 30 phút thì Bùi Xuân T dẫn cháu H xuống tầng hầm của nhà Bùi Xuân T chơi trò trốn tìm, khi đang chơi thì cháu H đòi đi tiểu nên Bùi Xuân T kéo quần của cháu H xuống ngang đùi và cháu H tự đi vào nhà vệ sinh.
Sau khi đi tiểu xong cháu H đi ra thì Bùi Xuân T kéo quần lên cho cháu H. Lúc này, trên nhà có người gọi mua hàng nên Bùi Xuân T chạy lên bán hàng cho khách, khoảng 10 phút sau Bùi Xuân T đi xuống tầng hầm thấy cháu H đang đứng ở trước cửa bếp và đòi đi tắm nên Bùi Xuân T kéo quần cháu H xuống đến ngang đùi và cháu H tự cởi quần ra khỏi chân. Cháu H đi vào nhà vệ sinh trước còn Bùi Xuân T đi sau cháu H, lúc này Bùi Xuân T nảy sinh ý định muốn giao cấu với cháu H nên Bùi Xuân T kéo quần của mình xuống ngang đùi, Bùi Xuân T dùng tay trái bế cháu H lên ngang hông Bùi Xuân T, hai chân cháu H ở hai bên hông Bùi Xuân T, mặt cháu H úp vào ngực Bùi Xuân T. Sau đó Bùi Xuân T dùng tay phải đưa dương vật đang cương cứng của mình vào âm hộ của cháu H để thực hiện hành vi giao cấu nhưng do âm hộ của cháu H còn nhỏ nên Bùi Xuân T không đưa được dương vật vào sâu bên trong, khi thấy cháu H kêu đau thì Bùi Xuân T đặt cháu H xuống đất rồi Bùi Xuân T tự kéo quần của mình lên và Bùi Xuân T mặc lại quần cho cháu H, sau đó cả hai cùng đi lên nhà ngồi xem ti vi.
Đến khoảng 13 giờ cùng ngày thì cháu H cùng bố là anh Nguyễn Thế D và mẹ là Nguyễn Thị T đang đón xe khách đi về Hải Phòng, vì cháu H đòi đi tiểu, trong lúc đi tiểu cháu H kêu đau ở bộ phận sinh dục. Khi anh D và chị T hỏi thì cháu H đã kể lại bị Bùi Xuân T xâm hại tình dục. Sau khi biết sự việc chị T đã làm đơn đề nghị Cơ quan Công an thành phố H giải quyết.
Tại bản kết luận giám định pháp y về tình dục nữ của Nguyễn Thị Thanh H số: 201/TD ngày 25/11/2014 của Trung tâm pháp y tỉnh Hòa Bình kết luận: “Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 2010 - Cơ thể phát triển bình thường phù hợp với lứa tuổi. Môi lớn bình thường, môi bé hai bên nền đỏ, màng trinh không rách”.
Trong quá trình điều tra Bùi Xuân T có dấu hiệu tâm thần. Cơ quan điều tra Công an tỉnh Hòa Bình đã ra quyết định trưng cầu giám định tâm thần đối với Bùi Xuân T tại Viện pháp y tâm thần Trung Ương.
Tại biên bản giám định pháp ly tâm thần số: 52/GĐPTTT kết luận: “Trước, trong, sau khi phạm tội và tại thời điểm giám định bị can Bùi Xuân T có bị bệnh chậm phát triển tâm thần vừa. Theo phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 năm 1992 về các rối loạn tâm thần và hành vi mã bệnh có mã số F71, hiện tại đang trong giai đoạn ổn định. Bị can hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Bị can cần được điều trị bệnh.”
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình đã ra Quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với bị cáo. Đến ngày 31/5/2017 theo kết luận giám định số: 26/GĐSKTT-SBBCB của Viện pháp y tâm thần trung ương kết luận: “Hiện tại tình trạng bệnh tâm thần của Bùi Xuân T ở giai đoạn ổn định. Không cần áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh”.
Ngày 12/6/2017 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hòa Bình đã ra quyết định đình chỉ việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh, Lệnh bắt bị can để tạm giam, Quyết định phục hồi điều tra vụ án hình sự số: 01/PC45.
Tại bản kết luận giám định tình trạng sức khỏe số: 103/PY – GĐSK ngày 19/6/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Hòa Bình kết luận: Bùi Xuân T, sinh năm 1999 bị bệnh chậm phát triển tâm thần mức độ. Mã bệnh F71, hiện tại đang trong giai đoạn ổn định. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do bệnh tật hiện tại là 43% (bốn mươi ba phần trăm).”
Trình bày lời luận tội tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Bùi Xuân T về tội Hiếp dâm trẻ em theo quy định tại khoản 4 điều 112 Bộ luật hình sự, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm b, n, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 47, Điều 69 và Điều 74 Bộ luật Hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo từ 03 đến 04 năm tù và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.
Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày sau khi phạm tội bị cáo đã ra đầu thú, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, thể hiện thái độ ăn năn hối cải, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự; tại thời điểm phạm tội bị cáo chưa thành niên lại có nhược điểm về tâm thần, gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường số tiền 10.000.000 đồng cho người bị hại, gia đình bị cáo có công với cách mạng. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, n, p khoản 1, khoản 2 điều 46 Bộ luật hình sự khi lượng hình.
Tại phiên tòa đại diện hợp pháp của người bị hại chị Nguyễn Thị T trình bày: Do hai gia đình có mối quan hệ quen biết với nhau từ trước, Bùi Xuân T còn nhỏ tuổi lại bị hạn chế nhận thức nên không ý thức được hành vi của mình, về hình phạt đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Về trách nhiệm dân sự đại diện hợp pháp của người bị hại trình bày đã nhận được số tiền 10.000.000 đồng tiền bồi thường từ phía gia đình bị cáo. Tại phiên tòa đại diện người bị hại không yêu cầu bị cáo Bùi Xuân T và gia đình bị cáo phải bồi thường thêm vấn đề gì.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án chị Nguyễn Thị G không có ý kiến đề nghị gì liên quan đến số tiền 10.000.000 đồng chị đã thay bị cáo hỗ trợ người bị hại là cháu H.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét toàn diện, đầy đủ chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, người đại diện hợp pháp của người bị hại.
XÉT THẤY
Tại cơ quan điều tra cũng như trước phiên tòa. Bị cáo Bùi Xuân T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình cụ thể:
Sáng ngày 24/11/2014 bị cáo cùng với cháu Nguyễn Thị Thanh H đang chơi với nhau tại nhà bị cáo. Khi cháu H đòi đi tắm trong lúc đưa cháu H vào nhà tắm và cởi quần cho cháu thì Bùi Xuân T đã nảy sinh ý định giao cấu đối với cháu H nên Bùi Xuân T đã kéo quần của mình xuống và bế cháu H lên ngang hông và thực hiện hành vi giao cấu với cháu H. Thời điểm bị xâm hại cháu H mới 04 tuổi 01 tháng 20 ngày. Còn Bùi Xuân T khi phạm tội mới 15 tuổi 02 tháng 21 ngày.
Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, kết quả giám định pháp y và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ căn cứ kết luận Bùi Xuân T phạm tội Hiếp dâm trẻ em như cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 4 Điều 112 Bộ luật Hình sự.
Xét hành vi mà bị cáo đã thực hiện là đặc biệt nghiêm trọng xâm hại đến sự phát triển bình thường về sinh lý và thể chất, danh dự và nhân phẩm của trẻ em được pháp luật bảo vệ. Ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội. Do vậy cần phải có hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện để cải tạo, giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung.
Trong quá trình nghị án Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Sau khi phạm tội đã ra đầu thú, thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn, hối cải. Gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho người bị hại số tiền 10.000.000 đồng, gia đình bị cáo có công với cách mạng. Ngoài ra bị cáo còn là người có nhược điểm về thể chất và tinh thần hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, n, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự cho bị cáo hưởng dưới khung hình phạt.
Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo mới 15 tuổi 02 tháng 21 ngày. Là người chưa thành niên phạm tội. Do vậy bị cáo được hưởng các quy định của pháp luật Hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội tại khoản 5 Điều 69 và khoản 2 Điều 74 Bộ luật Hình sự.
Về trách nhiệm dân sự: Sau khi bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, mẹ đẻ của bị cáo là chị Nguyễn Thị G đã bồi thường hỗ trợ cho người bị hại số tiền 10.000.000 đồng. Đại diện hợp pháp của người bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm. Do vậy Hội đồng xét xử chấp nhận
Về vật chứng của vụ án: Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 quần đùi màu vàng, 01 chiếc quần đùi màu đỏ; 01 chiếc áo phông cộc tay màu xanh, 01 chiếc áo phông trẻ em dài tay màu vàng; 01 quần trẻ em có in hình con chim. Là quần áo của bị cáo và bị hại. Toàn bộ số quần áo này đã cũ không còn giá trị sử dụng cần tịch thu xuất hủy.
Về án phí: Bị cáo Bùi Xuân T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Bùi Xuân T phạm tội Hiếp dâm trẻ em.
1/ Áp dụng khoản 4 Điều 112; điểm b, n, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; khoản 5 Điều 69; khoản 2 Điều 74 Bộ luật hình sự.
Xử phạt Bùi Xuân T 3 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam giữ 24/11/2014.
2/ Áp dụng điều 41 Bộ luật hình sự, điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy:
- 01 (một) quần đùi nam màu vàng;
- 01 (một) áo phông cộc tay màu xanh;
- 01 (một) quần đùi nam màu đỏ;
- 01 (một) áo phông trẻ em dài tay màu vàng;
- 01 (một) quần dài trẻ em trên quần có in hình đầu con chim;
Tất cả đều đã cũ và qua sử dụng (chi tiết vật chứng nêu trên được thể hiện theo biên bản giao nhận vật chứng số: 37/BB- GNVC ngày 06/9/2017 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hòa Bình và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hòa Bình).
3/ Bị cáo Bùi Xuân T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, bị cáo, luật sư bào chữa cho bị cáo, người bị hại, người đại diện hợp pháp cho người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Bản án 29/2017/HSST ngày 28/09/2017 về tội hiếp dâm trẻ em
Số hiệu: | 29/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hoà Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/09/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về