Bản án 29/2017/HNGĐ-ST ngày 19/07/2017 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 29/2017/HNGĐ-ST NGÀY 19/07/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 19 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Long Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 166/2017/TLST – HNGĐ ngày 11 tháng 4 năm 2017 về Tranh chấp ly hôn và nuôi con chung theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 70/2017/QĐXX ngày 26 tháng 6 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị H, sinh ngày 20/5/1990

HKTT: Xóm 5, thôn T, xã L, huyện A, TP. Hải Phòng. Trú tại: Xóm 5, thôn T, xã L, huyện A, TP. Hải Phòng. Bị đơn: Anh Nguyễn Trung K, sinh ngày 19/01/1982

HKTT: Tổ 16, phường N, quận L, TP Hà Nội

Hiện đang chấp hành án tại Đội X – Phân trại số Y – Trại giam Vĩnh Quang – Tam Đảo – Vĩnh Phúc

(Chị H có mặt, anh K có đơn xin vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Ti đơn khởi kiện đề ngày 01/3/2017 và các lời khai tại Tòa, nguyên đơn Phạm Thị H trình bày:

Chị Phạm Thị H và anh Nguyễn Trung K kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại UBND thôn T, xã L, huyện A, TP. Hải Phòng ngày 16/3/2016.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại xóm 5, thôn T, xã L, huyện A, TP. Hải Phòng.

Vợ chồng chung sống hạnh phúc với nhau đến tháng 9/2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh K không chú tâm làm ăn, thường xuyên chơi bời, không quan tâm chăm lo cho cuộc sống gia đình. Đến cuối năm 2016, anh K vi phạm pháp luật và bị Tòa án nhân dân quận L, TP. Hà Nội xử 26 (Hai mươi sáu) tháng tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Hiện nay anh K đang thụ án tại đội X – Phân trại số Y – Trại giam Vĩnh Quang – Tam Đảo – Vĩnh Phúc. Vợ chồng ly thân từ tháng 11 năm 2016 đến nay. Do mâu thuẫn phát sinh từ lâu và đỉnh điểm là việc anh K bị bắt nên chị xác định tình cảm vợ chồng không còn. Chị xin được ly hôn đối với anh K.

- Về con chung: Anh chị không có con chung

- Về tài sản chung: không yêu cầu Toà án xem xét và giải quyết.

*Theo lời khai của anh Nguyễn Trung K trình bày:

Anh Nguyễn Trung K và chị Phạm Thị H kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại UBND thôn T, xã L, huyện A, TP. Hải Phòng ngày 16/3/2016.

Quá trình chung sống, giữa hai vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn do tính cách, lối sống không hợp nhau. Cuộc sống chung thường xuyên căng thẳng, không có hạnh phúc. Đến tháng 11/2016 anh K bị bắt vì tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và bị Tòa án nhân dân quận L, TP. Hà Nội xử phạt 26 tháng tù giam. Vợ chồng ly thân từ giữa năm 2016  đến nay. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh đồng ý ly hôn.

- Về con chung: Anh chị không có con chung

- Về tài sản chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên tại phiên toà phát biểu ý kiến: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Người tham gia tố tụng là nguyên đơn và bị đơn chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn là chị H có mặt và bị đơn là anh K có đơn xin vắng mặt, Tòa án đã làm đầy đủ trình tự theo thủ tục tố tụng.

Vì vậy, căn cứ vào: khoản 1 Điều 28 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015 và các Điều: 51,55,81,82,83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, đề nghị Tòa án nhân dân quận Long Biên:

- Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Phạm Thị H.

- Về con chung: Đề nghị không xem xét giải quyết.

- Về tài sản chung: Đề nghị không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả diễn biến tại phiên toà, sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:

* Về tố tụng: Tòa án đã làm đầy đủ thủ tục tống đạt hợp lệ các văn bản cho bị đơn là anh Nguyễn Trung K. Anh K có đơn xin xét xử vắng mặt nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án là đúng quy định của khoản 1 Điều 228 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015.

* Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị H và anh Nguyễn Trung K kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại UBND thôn T, xã L, huyện A, TP. Hải Phòng ngày 16/3/2016. Đây là hôn nhân hợp pháp.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc với nhau đến giữa năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính cách, lối sống không hợp nhau, anh K chơi bời, không chịu làm ăn dẫn đến hai vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Mâu thuẫn ngày càng trở nên trầm trọng và kéo dài. Đến tháng 11 năm 2016 anh K bị Công an quận L bắt và ngày 30/11/2016 bị Tòa án nhân dân quận L, TP. Hà Nội xử phạt 26 tháng tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Hiện anh K đang thụ án tại đội X – Phân trại số Y – Trại giam Vĩnh Quang – Tam Đảo – Vĩnh Phúc. Nay chị H xác định tình cảm không còn, xin được ly hôn đối với anh K.

Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh K đã căng thẳng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, anh K đang thụ án về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy nên khó có khả năng hàn gắn đoàn tụ vợ chồng được. Do đó chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H đối với anh K là có căn cứ và phù hợp với quy định tại điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

* Về con chung: Anh chị không có con chung nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề giải quyết.

* Về tài sản chung: Anh chị không yêu cầu Toà án xem xét nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề giải quyết.

* Về án phí: Chị H phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 228 và khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

- Căn cứ Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội:

Xử:

1.  Về hôn nhân:

Cho ly hôn giữa chị Phạm Thị H và anh Nguyễn Trung K.

2. Về nuôi con chung: Anh chị không có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Về tài sản chung: Không yêu cầu Toà án giải quyết.

4. Về án phí: Chị Phạm Thị H phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn)đồng tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Chị Lê đã nộp 300.000đ tiền tạm ứng án phí theo biên lai số 5144 ngày 11/4/2017 tại Chị cục thi hành án quận Long Biên. Nay chuyển thành án phí.

Án xử công khai sơ thẩm.

Chị Phạm Thị H và anh Nguyễn Trung K có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

301
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 29/2017/HNGĐ-ST ngày 19/07/2017 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:29/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;