Bản án 288/2023/LĐ-PT về tranh chấp quyền, lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H CHÍ MINH

BẢN ÁN 288/2023/LĐ-PT NGÀY 14/03/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN, LỢI ÍCH LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC LÀM, TIỀN LƯƠNG

Trong ngày 14 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh số A, phường B, Quận A, Thành phố H xét xử phúc thẩm công khai vụ án lao động thụ lý số 86/2022/TLPT-LĐ ngày 05 tháng 12 năm 2022 về việc: “Tranh chấp về quyền, lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương”.

Do bản án lao động sơ thẩm số 16/2022/LĐ-ST ngày 22/9/2022 của Tòa án nhân dân quận Gò vấp, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 806/2023/QĐPT-LĐ ngày 27/02/2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Vương Bích H , sinh năm 1971 Địa chỉ: C đường Q, Phường A, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị đơn: Công ty TNHH B1.

Địa chỉ: B Khu phố B, phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương Người đại diện theo ủy quyền: Bà Hoàng Thị H1 sinh năm 1987; Địa chỉ: B Khu phố B, phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương (Theo Giấy ủy quyền số 006/2023/POA-HH ngày 14/02/2023 của Công ty TNHH B2) Người bảo vệ quyền, lợi ích của bị đơn: Luật sư Nguyễn Hoàng D Luật sư Hoàng Đình H- Công ty L sở: Phòng 307 - Tòa nhà S, số C đường N, phường T, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty Cổ phần D1 Địa chỉ: B Khu phố B, phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Phạm T H3 sinh năm 1997 Địa chỉ: B Khu phố B, phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương (Theo Giấy ủy quyền số 002/2023/POA-CUCMS ngày 14/02/2023 của Công ty cổ phần D1).

Người kháng cáo: Bà Vương Bích H1 nguyên đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 21 tháng 9 năm 2020, và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà Vương Bích H2 bày:

Ngày 01/12/2019 bà H3 hợp đồng lao động số 0125/2019/CUC-MS/LC với Công ty Cổ phần D1(CUC), có trụ sở tại số B, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dươngdo ông Tanabe M đại diện theo pháp luật. Địa chỉ làm việc tại số B Khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương Ngày 01/01/2019, khi còn là nhân viên tại Văn phòng đại diện M3 bà có quen biết với ông MATSUNAGA HIROYUKI (là đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH B3 ngày 01/3/2020, ông MATSUNAGA HIROYUKI liên hệ và yêu cầu bà làm Công t nhân sự tại Công ty TNHH B4 có trụ sở tại số B Khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương. Việc ông M1HIROYUKI yêu cầu bà làm tại Công ty TNHH B5 thông qua các email giao việc và ông M2 ký duyệt sơ đồ cơ cấu tổ chức cho bà làm công tác nhân sự tại Bệnh viện Đ bà tham gia vào các buổi họp được chủ trì bởi ông M1 H4 tuyển dụng bác sĩ; hoạch định mục tiêu kế hoạch hành động nhân sự; thực hiện với nhân viên về việc kết thúc hợp đồng lao động cho việc đóng cửa hoạt động phòng khám chi nhánh, ngoài ra bà H4 kiểm tra và ký tên vào bảng lương của Công ty TNHH B6 từ tháng 3 năm 2020 với vai trò là Giám đốc nhân sự. Bà H5 định bà Công ty TNHH B7 có hợp đồng lao động bà cũng chưa được trả lương. Đến ngày 17/8/2020 bà đến Công ty TNHH B8 việc nhưng phía Công ty TNHH B9 báo với bà là bà đã bị sa thải và bảo vệ không cho bà vào làm việc như Vi bằng số 282/2020VB-VPTPLGV do Văn phòng Thừa Phát Lại quận G ngày 17/8/2020.

Từ thời điểm làm việc tại Công ty TNHH B3 nay thì bà chưa được Công ty TNHH B10 lương. Nhưng bà cho rằng giữa bà và Công ty TNHH B11 không có hợp đồng lao động và trả lương.

Vì vậy, bà cho rằng việc Công ty TNHH B12 thải bà như vậy là không đúng quy định của pháp luật.

1/ Công ty TNHH B13 thanh toán cho cho bà số tiền tiền lương từ tháng 3/2020 đến tháng 5/2022 là 6.080.000.000 đồng.

Theo bà H6 mức lương được tính trên cơ sở:

Tháng 3/2020 và tháng 4/2020 năm Bệnh viện H28 có 02 bệnh viện và 03 phòng khám. Theo đó mức lương bà H7 việc tại các bệnh viện là 80.000.000 đồng/tháng và mức lương tại các phòng khám là 40.000.000 đồng/tháng. Bà yêu cầu mức lương 280.000.000/tháng cho thời gian làm việc tại Bệnh viện H vào tháng 3 và tháng 4/2020.

Đến tháng 5 năm 2020 thì 1 phòng khám đóng cửa nên Bệnh viện H29 còn 02 bệnh viện và 02 phòng khám vì vậy, bà yêu cầu mức lương là 240.000.000 đồng/tháng cho đến tháng 5 năm 2022.

Tòa án cấp sơ thẩm đã yêu cầu bà H8 trình, cung cấp tài liệu chứng cứ đối với yêu cầu về mức lương bà đề nghị Bệnh viện H phải trả: Bà H8 trình: Bà căn cứ vào mức lương bà ký kết với Công ty C1 80.000.000 đồng/tháng, vì số lượng nhân viên của Công ty C1 là khoảng 100 nhân sự. Từ đó bà H9 cứ đối với Bệnh viện H30 Bệnh viện C có nhân sự lớn hơn 100 người thì bà yêu cầu mỗi đơn vị mức lương bằng lương bà làm việc tại CUCMS. Đối với những phòng khám chi nhánh có nhân sự dưới 100 người thì bà H10 cầu mức lương là 40.000.000 đồng/tháng. Ngoài việc căn cứ vào hợp đồng bà ký CUCMS và số nhân sự của Bệnh viện H và các chi nhánh thì bà H11 căn cứ vào mức độ phức tạp, quan trọng khi làm việc cho H12 H5 như tuyển dụng nhân viên y tế, ngân sách, tham vấn mức lương, hệ thống đánh giá nhân viên.

Số lượng Bệnh viện phòng khám của Hoàn H13 bà H14 là do quá trình làm việc với ông M3 bà đã đến các phòng khám, bệnh viện để làm việc. Bà H15 có chứng cứ để chứng minh về số phòng khám và các bệnh viện chi nhánh của H16 căn cứ vào bảng lương có thổ xác định được số lượng người cụ thể. Ngoài ra, Wesite của Bệnh viện H cũng thể hiện số lượng bệnh viện chi nhánh và phòng khám của Hoàn H5.

2/ Buộc Công ty TNHH B14 hợp đồng lao động với bà theo đúng quy định pháp luật.

3/ Nhận bà trở lại làm việc và thanh toán 02 tháng tiền lương (480.000.000 đồng).

Tổng số tiền bà Vương Bích H17 cầu Công ty TNHH B13 trả cho bà tính đến tháng 9 năm 2022 là 7.785.000.000 đồng đồng bao gồm 7.305.000.000 đồng tiền lương tính từ tháng 3/2020 đến tháng 9 năm 2022 và 480.000.000 đồng cho 02 tháng tiền lương. Tổng cộng bà H17 cầu Công ty TNHH B13 trả cho bà số tiền tính đến tháng 9 năm 2022 là 7.785.000.000 (bảy tỷ bảy trăm tám mươi lăm triệu) đồng; Ký hợp đồng lao động với bà H18 đúng quy định pháp luật và nhận bà H19 lại làm việc.

Bà H5 định bà là Trưởng phòng nhân sự của CUC, bản thân bà biết giữa CUC và Bệnh viện H31 ký kết hợp đồng dịch vụ quản lý với nhau nhưng bà không hề nhận được văn bản của CUC yêu cầu bà hỗ trợ cho bệnh viện H Đại diện bị đơn trình bày: Công ty TNHH B2(Bệnh viện H có đăng ký trụ sở tại số B khu phố B, phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương Đại diện bị đơn cho rằng tại bản khai ngày 24/12/2020 đến thời điểm hiện nay, Bệnh viện H vẫn giữ nguyên quan điểm cho rằng giữa Công ty TNHH D1 phát sinh bất cứ quan hệ lao động nào theo như Bộ luật Lao động quy định. Cụ thể, Khoản 6 Điều 3 Bộ luật lao động 2012 có quy định:

“6. Quan hệ lao động là quan hệ xã hội phát sinh trong việc thuê mướn, sử dụng lao động, trả lương giữa người lao động và người sử dụng lao động”.

Theo quy định trên, bản chất quan hệ lao động phải phát sinh các điều kiện sau:

- Hình thức giao kết hợp đồng lao động bằng văn bản và phát sinh việc thuê mướn, sử dụng lao động, trả lương giữa người lao động và người sử dụng lao động.

Tuy nhiên, trên thực tế, Công ty H32 có quan hệ lao động dưới bất cứ hình thức nào. Cụ thể Hình thức giao kết hợp đồng lao động: Giữa Công ty H33 bà Vương B H6 không ký kết bất cứ hợp đồng lao động. Căn cứ theo quy định của Bộ luật lao động số 10/2012/QH13 thì Điều 15, Điều 16 Bộ luật lao động xác định: Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả tiền lương, điều kiện làm việc, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động và hình thức của hợp đồng lao động phải được giao kết bằng văn bản và được làm thành 02 bản, người lao động giữ 01 bản và người sử dụng lao động giữ 01 bản, trừ trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều này.

Trong quá trình giải quyết vụ án, bà Vương B H6 đã thu thập, cung cấp và bổ sung một số tài liệu, chứng cứ, tuy nhiên các tài liệu chứng cứ này không thể hiện việc thuê mướn, sử dụng lao động và trả lương giữa H12 H5 và bà Vương Bích H20 số tài liệu chứng cứ do bà H6 cung cấp bao gồm:

Chứng cứ 1: Văn bản số 61/VCB-TĐU.KT.m v/v cung cấp thông tin của Ngân hàng Thương mại cổ phần N- Chi nhánh Tngày 17/5/2021 đính kèm danh sách chứng từ thanh toán lượng tháng 3/2020, tháng 4/2020 và tháng 5/2020 của Công ty TNHH B Chứng cứ 2: Đơn giải trình v/v mức lương đề nghị tại các bệnh viện, phòng khám của Công ty TNHH B1 đơn khởi kiện tranh chấp về quyền, lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương ngày 19/01/2021 của bà Vương B H6 Theo đó, tại các chứng từ chi lương đính kèm Văn bản số 61, bà Vương B H6 không hề có tên trong danh sách những người lao động được nhận lương của Công ty TNHH B15 này chứng tỏ, Công ty H32 hề thanh toán bất kỳ khoản tiền lương nào cho bà Vương B H6 với tư cách là người lao động của Công ty H34 Ngoài ra, đối với việc một số bảng kê hạch toán đính kèm Văn bản số 61 có thể hiện tên bà H6 với tư cách giám đốc nhân sự, Công ty H giải trình như sau:

Ngày 01/9/2019, Công ty cổ phần D1(CUC) và Công ty TNHH B16 ký kết hợp đồng dịch vụ tư vấn theo đó, căn cứ vào nội dung được ký kết tại Hợp đồng dịch vụ, CUC sẽ có nghĩa vụ thực hiện một số dịch vụ theo các điều khoản và điều kiện và điều khoản được quy định tại Điều 2, Điều 3 và Phụ lục 1 (về phạm vi dịch vụ của CUC) được quy định và đính kèm trong Hợp đồng dịch vụ quản lý. Bà Vương B H6 là nhân sự của CUC và được CUC điều động sang H để thực hiện các hoạt động liên quan đến hợp đồng dịch vụ quản lý được ký kết giữa H và C1 hiện nay có khoảng 60 nhân viên CUC đang làm việc tại Bệnh viện H35 các điều khoản này. Bệnh viện Hđã thanh toán chi phí cho phía CUC đầy đủ các hóa đơn liên quan đến Hợp đồng dịch vụ quản lý đã ký với CUC.

Đối với các yêu cầu của bà H6 về việc yêu cầu bệnh viện Đ phải thanh toán cho bà số tiền 7.305.000.000 đồng tiền lương từ tháng 3/2020 đến tháng 9 năm 2022: Công ty H32 đồng ý bởi Công ty TNHH B1 từng phát sinh bất kỳ mối quan hệ lao động, yêu cầu bà H6 thực hiện công việc cho Công ty TNHH D1 giữa bà H6 và Công ty H32 có bất kỳ thỏa thuận về việc giao kết hợp đồng lao động với bà H6 để làm việc cho Công ty H33 đó, mức tiền lương bà H6 yêu cầu Công ty H36 thanh toán là không có cơ sở.

Đối với yêu cầu của bà H6 về việc Công ty TNHH B13 ký kết hợp đồng lao động với bà H6 theo đúng quy định của pháp luật: Công ty TNHH B7 có nhu cầu tuyển dụng lao động và mức lương mà bà H6 đề cập trong thời điểm hiện nay cũng như bà H6 không đủ năng lực, trình độ chuyên môn phù hợp với Công ty H Vì vậy Công ty TNHH B7 chấp nhận ký hợp đồng lao động theo yêu cầu của bà Vương B H6 Đối với yêu cầu nhận bà H6 trở lại làm việc và thanh toán 02 tháng tiền lương: Công ty TNHH B7 đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng với bà H6 do đó không tồn tại bất kỳ mối quan hệ lao động giữa bà H6 và Công ty H37 không có bất cứ cơ sở pháp lý nào để Công ty H7 nhận bà H6 trở lại làm việc khi bà H6 chưa từng làm việc cho Công ty H trên mối quan hệ lao động cũng như trả 02 tháng tiền lương theo yêu cầu của bà H6 Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty Cổ phần D1 (Công ty C2 bà Nguyễn Phạm T H3 giữ nguyên ý kiến đã trình bày tại bản tự khai ngày 27 tháng 12 năm 2021:

- Công ty C3 thành lập T1 có Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp số 3702804180 do Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh B cấp ngày 27/8/2019. Bà Vương B H6 và Công ty C1 ký hợp đồng lao động số 0125/2019/CUC-MS/LC ngày 01/12/2019 với chức danh là Giám đốc nhân sự, với thời gian làm việc 08 tiếng từ thứ 2 đến thứ 6 từ 09:00 đến 18:00 tại địa chỉ số B Khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương với mức lương cơ bản là 80.000.000 đồng/tháng với tiền trợ cấp hàng tháng là 8.000.000 đồng/tháng, bà H6 làm việc cho Công ty tại địa chỉ trụ sở của Công ty như quy định trên hợp đồng và được trả lương đầy đủ cho những ngày làm việc theo bảng chấm công số ngày làm thực tế và Công ty đã thanh toán tiền lương cho bà H6 theo đúng hợp đồng lao động đã ký. Ngày 13/8/2020, bà H6 bị xử lý kỷ luật lao động và Công ty đã Quyết định về việc áp dụng hình thức kỷ luật sa thải đối với bà Vương B H6 Đối với nội dung liên quan đến tranh chấp giữa bà Vương B H6 và Công ty TNHH B1 C1 có trình bày như sau: Căn cứ vào Hợp đồng lao động giữa Công ty C4 bà Vương B H6 về phạm vi công việc cho phép bà H6 được thực hiện các công việc liên quan đến quản trị nhân sự không chỉ của Công ty C5 còn quản lý nhân sự khác của Bviện/phòng khám, cụ thể là của Công ty H33 ký kết với nhau hợp đồng dịch vụ tư vấn ngày 01/9/2019 trong đó Công ty H38 định Công ty C1viện/Phòng khám của Công ty H39 cơ sở duy nhất, độc quyền trong suốt thời hạn của hợp đồng. Theo đó, Công ty C6 lý các Bệnh viện/phòng khám của Công ty H40 nhiều lĩnh vực bao gồm: hỗ trợ quản trị nhân sự; Dịch vụ quản lý tài chính và thuế; Dịch vụ quản lý bảo hiểm, Pđào tạo, dịch vụ tuyển dụng.

Thông qua nội dung thỏa thuận về phạm vi công việc trong hợp đồng lao động giữa Công ty Clvới bà H6và Hợp đồng dịch vụ tu vấn quản lý được ký giữa Công ty Clvới Công ty H41 bà Vương B H6mặc dù là người lao động của CUC nhưng lại thực hiện một số công việc liên quan đến quản trị nhân sự tại Bệnh viện/Phòng khám của Công ty H là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Nguyên đơn bà Vương B H6 vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện cụ thể bà yêu cầu Công ty TNHH B13 thanh toán cho bà số tiền 7.305.000.000 đồng cho thời gian bà không được làm việc tính từ tháng 3/2020 đến tháng 9/2022; ký hợp đồng lao động với bà theo đúng quy định của pháp luật, nhận bà trở lại làm việc và thanh toán cho bà 02 tháng tiền lương là 480.000.000 đồng.

Bà H6 thừa nhận từ tháng 01/12/2019 đến tháng 8 năm 2020 bà và Công ty C7 hợp đồng lao động, bà làm việc cho Công ty C8 chức danh Giám đốc nhân sự theo hợp đồng lao động số 0125/2019/CUC-MS/LC ngày 01/12/2019. Bà Vương B H6 trình bày: Bà chưa ký hợp đồng lao động với Công ty TNHH D1 giữa bà và Công ty H42 không có bất cứ thỏa thuận nào về tiền lương, thời gian lao động, thời giờ nghỉ ngơi cũng như thỏa thuận về các phúc lợi xã hội mà chỉ là ông M2 nói bà về làm thì bà về làm việc cho Công ty H43 thừa nhận thời gian mà bà làm việc tại Công ty H44 và giám sát công việc của bà là bà Minh C- Là người lao động của Công ty C4 là trợ lý cho ông M2 H6 cũng thừa nhận địa chỉ email hang.vuongbich@cuc-jpn.com là email do CUC của Nhật Bản cung cấp cho bà, nhưng việc bà sử dụng email hang.vuongbich@cuc-jpn.com để làm việc với ông M2 là vì bà không có email nào khác.

Bà H6 cho rằng bà khởi kiện Bệnh viện Đ1 bị bóc lột sức lao động, Công ty C9 có chức năng cung cấp dịch vụ lao động, nếu cứ ký hợp đồng với Công ty C1 có quyền yêu cầu bà làm việc cả 10 công ty thì bà cũng phải làm là bóc lột sức lao động của bà. Bà H6 dẫn chứng rằng nếu Công ty Bảo vệ cử nhân viên đến bảo vệ cho 1 đơn vị nào đó thì Công ty bảo vệ đó phải có giấy phép con, Công ty C9 có giấy phép con nên không có quyền cử bà sang làm việc tại Công ty H45 thời bà H6 cũng cho rằng quá trình làm việc tại CUC bà không nhận được Thông báo số 0301/TB-CUCMS ngày 03/01/2020 về việc chỉ định Ban Quản Lý của CUC làm việc với Ban Điều Hành của H12 H5 bà chỉ biết khi công khai chứng cứ.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày: Các luật sư cho rằng không có chứng cứ để minh chứng giữa bà Vương B H6 và Công ty H có quan hệ lao động và bà H6 là người lao động của Công ty HNhững tài liệu trong hồ sơ vụ án thể hiện bà H6 là người lao động của Công ty C4 được Công ty C10 sang thực hiện một số hoạt động liên quan đến hợp đồng dịch vụ được ký kết giữa Công ty H và Công ty C11 thanh toán chi phí dịch vụ đầy đủ cho Công ty C4 cũng đã trả lương cho bà Vương B H6 theo quy định. Luật sư Hoàng Đ H2 cũng cho rằng, căn cứ vào Thông báo số 0301/TB-CUCMS ngày 03/01/2020 về việc chỉ định Ban Quản Lý của CUC làm việc với Ban Điều Hành của H12 H5 thì bà Vương B H6 là thành viên của Ban C1trực tiếp làm việc với Ban Điều Hành của Hoàn Hảo liên quan đến việc quản lý các bệnh viện, phòng khám của H12 H5đồng thời tại Điều 6.2 của Hợp đồng dịch vụ quản lý ngày 01/9/2019 giữa Công ty H và Công ty C12 điều khoản “Dịch vụ phải được thực hiện thông qua Ban quản lý của CUC. Công việc được hoàn thành bởi Ban quản lý của CUC theo Hợp đồng này sẽ được ghi nhận và công nhận như là công việc của cuc. Không có bất cứ thành viên nào của Ban quản lý của CUC được xem như là nhân viên của H12 H5 Vì vậy, các luật sư đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

Đại diện hợp pháp của bị đơn bà Hoàng Thị H21 bày: Bà H1 đồng ý với ý kiến trình bày của các luật sư bảo vệ quyền lợi cho H12 H5và bổ sung bà cho rằng căn cứ vào Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của CUC thì Công ty C1 có chức năng cung ứng dịch vụ lao động. Đại diện bị đơn giữ nguyên các ý kiến đã trình bày và đề nghị Hội đồng xét xử bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Đại diện hợp pháp của Công ty C13 bày: Công ty C14 nguyên những ý kiến đã trình bày và không có ý kiến gì thêm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò vấp phát biểu ý kiến:

1/ Về tố tụng:

- Về tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 trong quá trình giải quyết vụ án về thẩm quyền thụ lý vụ án, xác định tư cách pháp lý và mối quan hệ của những người tham gia tố tụng cũng như thời hạn gửi các văn bản tố tụng cho các đương sự và hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu.

- Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Tại phiên tòa hôm nay Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về phiên tòa sơ thẩm:

- Về chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn, bị đơn và những người tham gia tố tụng khác đã thực hiện đúng quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; bị đơn đã không thực hiện đúng quy định tại Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

2/ Về nội dung: Sau khi tóm tắt và phân tích nội dung vụ án, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò vấp cho rằng việc bà Vương Bích H22 thực hiện một số công việc liên quan đến quản trị nhân sự tại Bệnh viện/Phòng khám Hoàn Hảo không thể hiện mối quan hệ lao động giữa bà Vương Bích H6 và H23 H5 Căn cứ điều 3.2 hợp đồng lao động số 0125/2019/CUC-MS/LC ngày 01/12/2019 bà H6 đã ký với CUC ghi nhận nội dung “người lao động có nghĩa vụ hoàn thành mọi nhiệm vụ quy định trong hợp đồng theo bản mô tả công việc và tuân thủ các mệnh lệnh điều hành của cấp trên trực tiếp”. Mặt khác, tại khoản 5.2.1 điều 5.2 Hợp đồng dịch vụ quản lý giữa CUC và H23 H5 có thỏa thuận nội dung: “CUC sẽ chỉ định số lượng nhân sự mà CUC cho rằng thích hợp, là những người đại diện CUC để làm việc với Ban Điều hành của H23 H5 để thực hiện Dịch vụ”. Dịch vụ mà cuc cung cấp theo phụ lục 1 kèm theo hợp đồng có bao gồm hỗ trợ quản trị nhân sự. Việc Bà H6 có tên trong sơ đồ cơ cấu tổ chức của H23 H5 không đồng nghĩa với việc bà H6 là nhân viên của H23 H5 vì bà H6 chỉ là nhân sự được CUC chỉ định thực hiện công việc theo dịch vụ mà CUC thỏa thuận cung cấp cho H23 H5 Như vậy, việc Bà H6 cho rằng Công ty Cổ phần D1(CUC) không có chức năng cung cấp dịch vụ nhân sự, không có hợp đồng dịch vụ nhân sự. Đồng thời giữa bà và CUC có ký hợp đồng lao động nhưng bà không hề biết là CUC yêu cầu bà làm việc cho bệnh viện Hoàn hảo bằng hợp đồng cung cấp dịch vụ giữa CUC và H23 H5 là không có cơ sở.

Căn cứ khoản 6 Điều 3 Bộ luật lao động 2012 quy định: “Quan hệ lao động là quan hệ xã hội phát sinh trong việc thuê mướn, sử dụng lao động, trả lương giữa người lao động và người sử dụng lao động”.

Nhận thấy, dựa trên các chứng cứ do bà Vương B H6 cung cấp trong hồ sơ vụ án và những phân tích ở trên, không đủ cơ sở để chứng minh quan hệ lao động giữa bà H6 và Công ty H46 nội dung trong các email chưa thể hiện các nội dung của một thỏa thuận lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm, tiền lương, điều kiện làm việc, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ lao động theo quy định tại Điều 15 Bộ luật lao động 2012, chưa đủ cơ sở xác định tồn tại thỏa thuận lao động riêng giữa bà H6và Công ty H46, chứng cứ chỉ có thể chứng minh quan hệ lao động giữa bà Vương B H6 và Công ty C1 và việc bà H6 làm việc tại H là trên cơ sở Hợp đồng dịch vụ quản lý giữa CUC và Công ty H43 H6 thực tế là nhân viên của CUC.

Nhận thấy, không thể chứng minh được quan hệ lao động giữa bà Vương B H6và Công ty H37 không thể phát sinh nghĩa vụ trả lương giữa các bên. Vì tiền lương theo quy định tại khoản 1 Điều 90 Bộ luật lao động 2012 là khoản tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động để thực hiện một công việc theo thỏa thuận. Vì vậy, không đủ căn cứ chấp nhận yêu cầu Công ty TNHH B13 thanh toán cho cho bà số tiền 6.080.000.000 đồng tiền lương từ tháng 3/2020 đến tháng 05/2022.

2.2 Xét yêu cầu buộc Công ty TNHH B14 hợp đồng lao động với bà theo đúng quy định pháp luật.

Công ty H47 bày hiện tại không có nhu cầu tuyển dụng lao động và Công ty nhận thấy bà Vương B H6 không đủ năng lực, trình độ, chuyên môn phù hợp với Bệnh viện H Vì vậy, Công ty không đồng ý ký kết hợp đồng lao động với bà H24 quy định tại Điều 17 Bộ luật lao động 2012 thì hợp đồng lao động phải được giao kết dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác và trung thực. Nhận thấy, Công ty H32 có nhu cầu và cũng không tự nguyện, thiện chí muốn tuyển dụng bà H6 vì vậy không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu này của nguyên đơn.

2.3. Xét yêu cầu buộc Công ty H48 bà trở lại làm việc và thanh toán 02 tháng tiền lương (480.000.000 đồng).

Như đã phân tích ở trên, từ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án không có cơ sở xác định quan hệ lao động giữa bà H6 và Công ty H46, chứng cứ chỉ có thể chứng minh quan hệ lao động giữa bà Vương B H6 và Công ty C15 bà H6 làm việc tại H là trên cơ sở Hợp đồng dịch vụ quản lý giữa CUC và Công ty H43 H6 thực tế là nhân viên của CUC. Công ty H không tiếp tục cho bà Hổlàm việc là do bà Hókhông còn là nhân sự của Công ty C16 nữa, vì không đủ căn cứ chứng minh được quan hệ lao động giữa bà Vương B H6và Công ty H37 không thể hình thành hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật của Công ty H33 cũng không làm phát sinh nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật. Do đó, không có căn cứ chấp nhận yêu cầu này của nguyên đơn.

Tại bản án lao động sơ thẩm số 16/2022/LĐ-ST ngày 22/9/2022 của Tòa án nhân dân quận Gò vấp, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Căn cứ vào Điều 32; điểm c khoản 1 Điều 35; điểm đ khoản 1 Điều 40; Điều 147; Điều 271; khoản 1 Điều 273, Điều 278 và khoản 1 Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1, khoản 6 Điều 3; Điều 15, Điều 16, Điều 17, khoản 1 Điều 90 Bộ luật lao động năm 2012;

Căn cứ khoản 1 Điều 6 ; khoản 1 Điều 12 ; khoản 1 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự.

Tuyên xử:

1 - Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Vương B H6 về việc:

- Công ty TNHH B13 thanh toán cho cho bà số tiền tiền lương từ tháng 3/2020 đến tháng 9/2022 là 7.305.000.000 đồng.

- Buộc Công ty TNHH B14 hợp đồng lao động với bà theo đúng quy định pháp luật.

- Nhận bà trở lại làm việc và thanh toán 02 tháng tiền lương (480.000.000 đồng).

2. Về án phí: Bà Vương B H6 được miễn nộp tiền tạm ứng án phí và án phí.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên quyền kháng cáo của các đương sự, quyền kháng nghị của Viện kiểm sát và việc thi hành án của các bên đương sự.

Ngày 04/10/2022, nguyên đơn bà Vương B H6 nộp đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Yêu cầu cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu của bà H6đối với Công ty TNHH B17:

1/ Phải thanh toán lương kể từ tháng 3/2020 đến tháng 8/2020 là 7.305.000. 000 đồng;

2/ Ký hợp đồng lao động theo đúng pháp luật với bà H25 3/ Nhận bà H6 trở lại làm việc và thanh toán 02 tháng tiền lương số tiền là 480.000.000 đồng (tiền lương là 240.000.000 đồng/tháng).

Tổng cộng số tiền Công ty TNHH B13 trả cho bà H6tạm tính đến ngày 22/9/2022 (Ngày xét xử sơ thẩm) là 7.785.000.000 đồng.

Lý do của việc kháng cáo: Bà H6 cho rằng việc bà ký tên vào các bảng lương tháng 3/2020; 4/2020 và tháng 5/2020 với chức vụ là Giám đốc nhân sự của Công ty TNHH B5 mặc nhiên Công ty đã xác nhận bà H6 là nhân viên Công ty TNHH B18 là Giám đốc nhân sự. Ngoài ra, căn cứ vào luật đầu tư, Công ty Cổ phần D2 có giấy phép con cho thuê lại lao động hoặc cung cấp dịch vụ lao động.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Nguyên đơn bà Vương B H6 vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, sửa án sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Vương B H6 Thi hành việc nhận bà H6 trở lại làm việc, ký kết hợp đồng lao động và trả các khoản tiền ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện theo ủy quyền của bị đơn và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn đề nghị không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Công ty cổ phần D1 đề nghị không chấp nhận yêu cầu kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thu ký và các bên đương sự chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về yêu cầu kháng cáo: Đơn kháng cáo của nguyên đơn là trong hạn luật quy định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

Không có cơ sở xác định giữa bà H6 với Công ty TNHH B1 có quan hệ lao động thông qua hợp đồng lao động hoặc các tài liệu chứng cứ khác để chứng minh có quan hệ lao động. Bà Vương B H6 chỉ có quan hệ lao động với Công ty Cổ phần D1 thông qua hợp đồng lao động số 0125/2019/CUC-MS/LC ngày 01/12/2019. Do đó, giữa bà H6 và Bệnh viện H không phát sinh quyền và nghĩa vụ với nhau nên không có cơ sở chấp nhận các yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Vương B H6 Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã phân tích, giải thích pháp luật và động viên các bên hòa giải nhưng không thành.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Ngày 22/9/2022, Tòa án nhân dân quận Gò vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm và tuyên án vụ án. Ngày 04/10/2022, nguyên đơn bà Vương B H6nộp đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm là còn trong thời hạn theo quy định tại Điều 272, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Do đó, đơn kháng cáo của nguyên đơn bà Vương B H6 được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.

Xét kháng cáo của nguyên đơn:

[1] Xét về quan hệ lao động giữa bà Vương B H6 với Công ty TNHH B1 giải quyết tranh chấp về quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên trong quan hệ lao động:

- Căn cứ Hợp đồng lao động số 0125/2019/CUC-MS/LC ngày 01/12/2019 được ký kết giữa bà Vương B H6 với Công ty cổ phần D3 định bà H6 có quan hệ lao động theo hợp đồng lao động trên với chức danh là Giám đốc nhân sự; thời hạn hợp đồng lao động là từ ngày 01/12/2019 đến ngày 01/12/2022;

- Căn cứ Hợp đồng Dịch vụ quản lý ký kết ngày 01/9/2019 giữa Công ty Cổ phần B2 - Căn cứ Bản án lao động sơ thẩm số 01/2022/LĐST Ngày 30/6/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương và bản án số 02/2023/LĐ-PT ngày 06/01/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương về việc Tranh chấp về xử lý kỷ luật theo hình thức sa thải và tranh chấp về tiền lương giữa nguyên đơn là bà Vương Bích H6 với bị đơn là Công ty cổ phần D1;

- Căn cứ các lời khai trình bày của các bên đương sự và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án;

Xác định bà Vương B H6 có quan hệ lao động với Công ty cổ phần D4 ngày 01/12/2019 đến ngày 14/8/2020 thì bị Công ty Cổ phần D1 [2] Xét bà H6 làm việc với các chức danh được Công ty Cổ phần D1 với Công ty TNHH B19 theo hợp đồng Dịch vụ quản lý, bà H6 làm việc tại địa điểm có địa chỉ 2 khu phố B, phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dươnglà nơi có trụ sở Công ty TNHH DT Bà H6thực hiện công việc, được trả tiền lương theo Hợp đồng lao động với Công ty cổ phần D1, nơi làm việc tại Công ty TNHH B20 bà H6 hoàn toàn không có phản đối, khiếu nại hoặc tranh chấp về lao động với Công ty Cổ phần D1 trong thời gian thực hiện hợp đồng lao động và làm việc tại địa điểm là Công ty TNHH B1.

[3] Xét bà H6 cho rằng có quan hệ lao động với Công ty TNHH B21 thời gian đang thực hiện hợp đồng lao động với Công ty cổ phần D1 nhưng không đưa ra được chứng cứ là hợp đồng lao động hoặc tài liệu có sự thỏa thuận về việc thuê mướn lao động, công việc, thời hạn và tiền lương với Công ty TNHH B1 Đ Việc bà H6 ký tên vào các bảng duyệt lương của Công ty TNHH B2 với chức vụ giám đốc nhân sự không phải đương nhiên là nhân viên của bệnh viện H mà xác định bà H6 thực hiện công việc do Công ty cổ phần D1 giao theo hợp đồng cung ứng dịch vụ quản lý giữa hai công ty.

[4] Xét cấp sơ thẩm đã đánh giá chứng cứ, nhận định và áp dụng pháp luật về lao động để xác định giữa bà H6 và Công ty TNHH B1 có quan hệ lao động nên không phát sinh quyền, nghĩa vụ và lợi ích giữa các bên để không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H6 là hoàn toàn có căn cứ. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 21 Bộ luật lao động năm 2012 có quy định về việc người lao động có thể giao kết hợp đồng lao động với nhiều người sử dụng lao động nhưng phải bảo đảm thực hiện đầy đủ những nội dung đã giao kết thì trong vụ án này bà H6 cũng không chứng minh được việc có giao kết và thực hiện hợp đồng lao động đúng quy định pháp luật lao động với Công ty TNHH B2.

[5] Xét việc bà H6 cho rằng Công ty cổ phần D1 là người sử dụng lao động trong quan hệ lao động với bà H6 theo hợp đồng lao động không có giấy phép con cho thuê lại lao động hoặc cung cấp dịch vụ lao động càng chứng minh thêm rõ thời gian bà H6 làm việc tại Công ty TNHH B5 đang thực hiện hợp đồng lao động với Công ty cổ phần D5 H6 cho rằng có liên quan đến việc cho thuê lại lao động hoặc cung cấp dịch vụ lao động của Công ty cổ phần D6 không có chứng cứ cũng như không phải là quan hệ tranh chấp trong vụ án nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Xét tại phiên tòa phúc thẩm bà H6 không cung cấp thêm chứng cứ mới, phía bị đơn không chấp nhận các yêu cầu kháng cáo và đồng ý với nhận định và quyết định của bản án sơ thẩm nên Hội đồng xét xử xét thấy cấp sơ thẩm dã nhận định và xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H6 về việc xác định không có quan hệ lao động giữa bà H6 với bị đơn là Công ty TNHH B1 có căn cứ nên Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo này của nguyên đơn.

Do xác định giữa bà H6 với Công ty TNHH B7 có quan hệ lao động nên Công ty TNHH B7 có nghĩa vụ gì về lao động đối với bà H6 Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà H6 về việc buộc Công ty TNHH B13 thanh toán lương kể từ tháng 3/2020 đến tháng 8/2020 là 7.305.000.000 đồng; Ký hợp đồng lao động theo đúng pháp luật với bà H26 bà H6 trở lại làm việc và thanh toán 02 tháng tiền lương số tiền là 480.000.000 đồng (tiền lương là 240.000.000 đồng/tháng). Tổng cộng số tiền Công ty TNHH B13 trả cho bà H6 tạm tính đến ngày 22/9/2022 (Ngày xét xử sơ thẩm) là 7.785.000.000 đồng.

Từ những phân tích, nhận định nêu trên và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bà Vương B H6 giữ nguyên bản án lao động sơ thẩm.

Về án phí: Án phí Lao động phúc thẩm bà Hóđược miễn nộp; Công ty TNHH B7 phải chịu án phí lao động phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điều 293; khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

- Luật thi hành án dân sự;

Tuyên xử: Không chấp nhận kháng cáo của bà Vũ Bích H27 nguyên bản án lao động sơ thẩm số 16/2022/LĐ-ST ngày 22/9/2022 của Tòa án nhân dân quận Gò vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Vương B H6 về việc:

- Công ty TNHH B13 thanh toán cho cho bà số tiền tiền lương từ tháng 3/2020 đến tháng 9/2022 là 7.305.000.000 đồng.

- Buộc Công ty TNHH B14 hợp đồng lao động với bà theo đúng quy định pháp luật.

- Nhận bà trở lại làm việc và thanh toán 02 tháng tiền lương (480.000.000 đồng).

2. Về án phí sơ thẩm: Bà Vương B H6 được miễn án phí.

3. về án phí phúc thẩm: Bà Vương B H6 được miễn án phí lao động phúc thẩm; Công ty TNHH B7 phải chịu án phí lao động phúc thẩm.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

36
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 288/2023/LĐ-PT về tranh chấp quyền, lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương

Số hiệu:288/2023/LĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành: 14/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;