Bản án 286/2019/HS-ST ngày 28/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 286/2019/HS-ST NGÀY 28/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 6 năm 2019, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 258/2019/TLST-HS ngày 31 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 313/2019/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 6 năm 2019 đối với: 

Bị cáo Nguyễn Phúc T, sinh ngày 02/9/1996. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Xóm 3, xã V, huyện Y, tỉnh N; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: Lớp 7/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Con ông: Nguyễn Phúc P (đã chết) và con bà: Lê Thị P; Vợ. con: Chưa có.Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/4/2019 đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 07/4/2019 do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Nguyễn Phúc T dùng điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen có số thuê bao 0368882603 gọi điện cho một người đàn ông tên V (T chỉ biết tên không biết địa chỉ cụ thể) nhờ V giới thiệu cho T người bán ma túy đá. Người đàn ông tên V đồng ý sau đó gọi điện lại cho T và cho T số điện thoại của một người đàn ông tên P (T chỉ biết tên không biết rõ địa chỉ). Sau đó T gọi điện cho người đàn ông tên P hỏi mua một gói ma túy đá với giá 300.000 đồng. Người đàn ông tên P hẹn gặp T tại khu vực ngã 3 xã V, huyện Y, tỉnh N để giao tiền và nhận ma túy. Sau đó Nguyễn Phúc T đi đến điểm hẹn gặp P, T đưa cho Phúc 300.000 đồng, P cầm tiền và đưa cho T một gói ma túy dạng đá gói ngoài bằng bao Potylen màu trắng. Sau khi mua được ma túy T về nhà và gọi điện cho anh Nguyễn Trọng H, sinh năm 1991 đăng ký hộ khẩu tại xóm N, xã P, huyện Y, tỉnh N để thuê H chở xe mô tô chở T vào thành phố V, đồng thời T gọi cho Lê Văn C, sinh năm 1993 trú tại xóm 11, xã V, huyện Y, tỉnh N đi cùng vào thành phố V chơi và sử dụng ma túy, Chiến đồng ý. Sau đó H đến đón T rồi đến đón C vào thành phố V. Đến 01 giờ 10 phút ngày 08/4/2019 khi đến cầu vượt C thuộc phường C, thành phố V thì bị Tổ công tác phòng cảnh sát cơ động Công an N kiểm tra phát hiện trong túi quần bò bên phải phía trước của T đang mặc một gói Potylen màu trắng bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, 01 điện thoại di động Nokia màu đen có số thuê bao 0368882603. Người cùng tang vật được đưa về trụ sở Công an tỉnh N lập Biên bắt người phạm tội quả tang.

Ngày 08/4/2019 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Vinh tiến hành mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và ra quyết định trưng cầu giám định. Tại Kết luận giám định số 589/KL-PC09(MT) ngày 12 tháng 4 năm 2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu chất tinh thể màu trắng thu giữ của Nguyễn Phúc T gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine). Số chất tinh thể màu trắng thu giữ của Nguyễn Phúc T có khối lượng là 0,180 gam.

Cáo trạng số 283/CT-VKS ngày 30/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh truy tố để xét xử Nguyễn Phúc T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh phát biểu quan điểm về vụ án, giữ nguyên tội danh đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt Nguyễn Phúc T từ 12 (Mười hai) tháng tù đến 15 (Mười lăm) tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Về xử lý vật chứng: áp dụng điều 106 BLTTHS, điều 47 Bộ luật hình sự tịch thu tiêu huỷ số ma túy đã thu giữ; Tịch thu sung quỹ nhà nước một chiếc điện thoại di động Nokia màu đen; áp dụng điều 136 BLTTHS, điều 23 Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định buộc bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí HSST.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Phúc T đồng ý với nội dung bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận gì và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Vinh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2]. Về hành vi của bị cáo: Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Phúc T thừa nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định và lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 01 giờ, ngày 08/4/2019, tại khu vực cầu vượt C, phường C, thành phố V, tỉnh N Nguyễn Phúc T có hành vi cất giấu 01 (một) gói ma túy (Methamphetamin) có khối lượng 0,180 gam nhằm mục đích sử dụng thì bị bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý". Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3]. Xét tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hành vi của bị cáo Nguyễn Phúc T phạm vào loại tội nghiêm trọng, hành vi nguy hiểm cho xã hội, vi phạm quy định về quản lý của Nhà nước về ma túy và là một trong những nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm và các tệ nạn xã hội khác. Bị cáo hoàn toàn nhận thức được hành vi cất dấu ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật nhưng do thiếu bản lĩnh, không làm chủ được bản thân nên đã phạm tội. Vì vậy, cần xử phạt nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Xét tình tiết giảm nhẹ thấy rằng trong quá trình điều tra, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy khi quyết định hình phạt nên xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo như mức đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, cần chấp nhận.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Nguyễn Phúc T lao động tự do thu nhập không ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

[5]. Về xử lý vật chứng: Số ma tuý thu giữ của bị cáo T là vật cấm lưu hành, không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu huỷ.

Một chiếc điện thoại di động Nokia màu đen của bị cáo sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu, sung quỹ nhà nước.

[6]. Đối với người đàn ông tên V và người đàn ông tên P bán ma túy cho bị cáo do không xác định được họ tên, lai lịch, địa chỉ cụ thể nên cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

Đối với Lê Văn C và Nguyễn Trọng H đi cùng bị cáo nhưng không biết việc bị cáo cất giấu ma túy nên không phạm tội.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Phúc T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Căn cứ vào điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Phúc T 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 08/4/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 01 (một) phong bì thư niêm phong dán kín, trong chứa ma túy (Methamphetamin), ghi thu giữ vật chứng của Nguyễn Phúc T. Tịch thu, sung quỹ nhà nước một chiếc điện thoại di động Nokia màu đen của bị cáo.

(Các vật chứng trên hiện có tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vinh theo phiếu nhập kho vật chứng số NK 312 ngày 04/6/2019).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Phúc T phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các điều 331, 332, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự bị cáo Nguyễn Phúc T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

273
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 286/2019/HS-ST ngày 28/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:286/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;