TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 28/2023/HS-ST NGÀY 18/08/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 18/8/2023, tại Phòng xử án, Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 29/2023/TLST-HS ngày 24/7/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2023/QĐXXST-HS ngày 04/8/2023, đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Võ Ngọc Q, sinh ngày 04/9/2000, tại tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú:
Tổ dân phố X, phường T, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật giáo; nghề nghiệp: Thợ sơn; trình độ học vấn lớp 9/12; con ông: Võ Văn B và bà: Phạm Thị Thu Th; vợ, con: Chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 13/12/2022, Công an thị xã Buôn Hồ ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 726/QĐ-XPHC về hành vi “Tàng trữ dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma tuý” bằng hình thức phạt tiền với số tiền 5.000.000 đồng, bị cáo đã chấp hành xong.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/4/2023 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk – có mặt tại phiên tòa.
2. Họ và tên: Phan Đ N Niê; sinh ngày 22/10/2002, tại tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: Tổ dân phố X, phường T, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Ê Đê; tôn giáo: Phật giáo; nghề nghiệp: Thợ sơn; trình độ học vấn lớp 8/12; con ông Phan Đình Ph và bà H N (H Nh) Niê; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; về nhân thân: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 54/2020/HSST ngày 30/11/2020 của Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ đã xử phạt bị cáo 01 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Ngày 17/6/2022, bị cáo chấp hành xong hình phạt. Tuy nhiên tại thời điểm bị kết án, bị cáo là người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi, nên được coi là không có án tích.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/4/2023 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk – có mặt tại phiên tòa.
Người làm chứng:
1. Anh Y B Mlô (Y N Mlô), sinh năm 2001-vắng mặt. Nơi cư trú: Buôn Z, phường A, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk
2. Anh Y X T Niê, sinh năm 2001-vắng mặt.
Nơi cư trú: Buôn Z, phường A, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Võ Ngọc Q và Phan Đ N Niê là bạn bè với nhau và đều là người nghiện ma túy. Thông qua mối quan hệ bạn bè ngoài xã hội, Q biết được tại khu vực lô cao su đường N, thành phố B tỉnh Đắk Lắk, có đối tượng là một người phụ nữ bán ma túy đá, do đó để có ma túy sử dụng và bán kiếm lời, nên vào ngày 14/4/2023, Q đón xe Buýt đi đến thành phố B, để mua ma túy. Khi đi đến nơi Q xuống xe, rồi đi bộ vào khu vực lô cao su bên đường N thì nhìn thấy một người phụ nữ (Không rõ nhân thân lai lịch), đang đứng với một số người khác nên đi lại hỏi có bán “Đá” không (Ý là có ma túy đá bán không), được người phụ nữ này trả lời “Có”, thì Q hỏi mua 1.000.000đ, người này đồng ý bán, thì Q đưa 1.000.000đ cho người phụ nữ và người này nói Q chờ một lúc. Sau đó người phụ nữ đi sâu vào trong lô cao su, một lúc sau đi ra và đưa cho Q 01 túi Ni lông trong suốt bên trong có chứa ma túy đá. Mua được ma túy, Q cầm trên tay và đi ra đường N đón xe Buýt đi về lại nhà tại phường T, thị xã B cất giấu. Đến ngày 15/4/2023, Q lấy túi ma túy phân ra một ít cho vào hai gói nhỏ, rồi đưa cho Phan Đ N Niê bán lại cho người khác, thống nhất giá bán mỗi gói là 500.000đ và Q sẽ cho N sử dụng ma túy miễn phí, hoặc cho N mượn tiền khi cần, thì N đồng ý, số ma tuý còn lại Q cất giấu để tự mình bán cho người khác.
Khoảng 19 giờ ngày 15/4/2023 Y B Mlô, sử dụng điện thoại di động của vợ đăng nhập vào mạng xã hội Facebook có tên “Z” của mình rồi liên hệ với N qua tài khoản Facebook “Đình N” hỏi mua 300.000đ ma túy đá, thì N đồng ý và bảo Y B Mlô đi đến nhà N để lấy ma túy, khoảng một phút sau Y B Mlô đi đến trước nhà của N, thì N mang 01 gói ma túy đi ra ngoài đường bán cho Y B Mlô, rồi lấy 300.000đ, số tiền này N đưa cho Q sử dụng; gói ma túy còn lại N cất dấu trên người để bán, tuy nhiên chưa bán được thì bị rơi lúc nào không biết. Khoảng 13 giờ 20 phút ngày 20/4/2023, khi N và Q đang ở nhà của N, thì có Y X T Niê, sử dụng điện thoại di động của ông S (là cha của Y X T), đăng nhập tài khoản Facebook có tên “T” của mình để liên hệ với N qua tài khoản “Đình N”, hỏi mua 200.000đ ma tuý, thì N đồng ý bán và nói Y X T Niê đi đến nhà N lấy. Khoảng 05 phút sau Y X T Niê đến, thấy vậy N nói với Q còn ma túy không bán cho Y X T 200.000đ, thì Q nói lại “Hai trăm không bán”, nghe vậy N nói lại Y X T là chỗ quen biết nên Q đồng ý bán, rồi lấy 01 gói ma túy bán cho Y X T Niê và Q lấy 200.000đ. Đến khoảng 09 giờ 20 phút, ngày 24/4/2023 khi Q đang ở nhà tại số M đường N, phường T, thị xã B thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ phát hiện bắt quả tang, tạm giữ người cùng tang vật. Trên cơ sở lời khai của Q thì Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ, tiến hành bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Phan Đ N Niê.
Bản kết luận giám định số 532/KL-GĐMT-PC09 ngày 28 tháng 4 năm 2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: “Các cục chất rắn dạng tinh thể màu trắng chứa trong 01 gói nylon trong suốt được niêm phong gửi giám định là Ma túy, có khối lượng 0,0817 gam, loại Methamphetamine”.
Vật chứng vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ thu giữ gồm: 01 túi Ni long trong suốt bên trong có Các cục chất rắn dạng tinh thể màu trắng, có khối lượng 0,0817 gam, loại Methamphetamine, khối lượng còn lại sau giám định là 0,0419 gam; 01 ống nỏ thủy tinh trong suốt đã bị vỡ một đầu và 01 cái quẹt gas;. 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung J2 Pro màu xám.
Bản cáo trạng số 28/CT-VKSBH ngày 21/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk đã truy tố bị cáo Võ Ngọc Q và Phan Đ N Niê, về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ giữ quyền công tố trình bày luận tội và tranh luận xác định: Giữ nguyên nội dung cáo trạng số 28/CT-VKSBH ngày 21/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.
Về tội danh: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Võ Ngọc Q và Phan Đ N Niê phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Đề nghị xử phạt bị cáo Võ Ngọc Q từ 08 năm đến 09 năm tù.
Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1,khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Đề nghị xử phạt bị cáo Phan Đ N Niê từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 túi Ni long trong suốt bên trong có Các cục chất rắn dạng tinh thể màu trắng, có khối lượng 0,0817 gam, loại Methamphetamine, khối lượng còn lại sau giám định là 0,0419 gam; 01 ống nỏ thủy tinh trong suốt đã bị vỡ một đầu và 01 cái quẹt gas.
Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung J2 Pro màu xám của Phan Đ N Niê, đây là điện thoại N sử dụng vào việc phạm tội. Truy thu nộp ngân sách số tiền 500.000 đồng của bị cáo Q do thu lợi bất chính từ việc bán ma tuý.
Tại phiên tòa các bị cáo Võ Ngọc Q và Phan Đ N Niê đã khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với hành vi mà nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát truy tố. Các bị cáo không tranh luận gì với đại diện viện kiểm sát.
Lời nói sau cùng, các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Buôn Hồ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.
[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Võ Ngọc Q và Phan Đ N Niê khai nhận: Vào khoảng 19 giờ ngày 15/4/2023 và khoảng 13 giờ 20 phút ngày 20/4/2023, Võ Ngọc Q và Phan Đ N Niê, đã có hành vi hai lần mua bán trái phép chất ma túy, loại Methamphetamine, trong đó: Một lần bán cho Y B Mlô thu lợi 300.000 đồng và một lần bán cho Y X T Niê thu lợi 200.000 đồng. Ngoài ra, khi cơ quan cảnh sát điều tra bắt quả tang thu giữ trên người bị cáo Võ Ngọc Q 0,0817 gam ma tuý, loại Methamphetamine, đây là số ma tuý bị cáo Q cất giữ để bán kiếm lời nhưng chưa kịp bán thì bị bắt giữ. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa Do đó, hành vi của bị cáo Võ Ngọc Q và Phan Đ N Niê, đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
Điều 251 Bộ luật Hình sự, quy định:
“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy thì bị phạt tù ….
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
b) Phạm tội 02 lần trở lên”.
[3] Xét tính chất của vụ án, hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội. Nhà nước nghiêm cấm các hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán, chứa chấp, sử dụng, tổ chức cho người khác sử dụng trái phép chất ma túy. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội, hành vi phạm tội là nguyên nhân làm phát sinh những loại tội phạm khác như cướp tài sản, cướp giật tài sản, trộm cắp tài sản.... nhưng các bị cáo cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi của mình gây ra.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét thấy quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, về hành vi phạm tội của mình, do vậy các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đối với bị cáo Võ Ngọc Q, khi bị bắt giữ, đã chủ động khai báo ra hành vi cùng bị cáo Phan Đ N Niê bán ma tuý cho Y X T Niê vào ngày 20/4/2023 nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là tự thú theo điểm r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[6] Về nhân thân của các bị cáo:
[6.1] Đối với bị cáo Võ Ngọc Q, có 01 tiền sự về hành vi “Tàng trữ dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma tuý” theo quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 726/QĐ-XPHC ngày 13/12/2022 của Công an thị xã Buôn Hồ, số tiền 5.000.000 đồng, bị cáo đã chấp hành xong nhưng chưa được coi là hết tiền sự theo quy định.
[6.2] Đối với bị cáo Phan Đ N Niê, tại bản án hình sự sơ thẩm số 54/2020/HSST, ngày 30/11/2020 của Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ, xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt. Tuy nhiên tại thời điểm bị kết án, bị cáo là người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi, nên được coi là không có án tích.
[7] Trong vụ án này, các bị cáo thực hiện với vai trò đồng phạm do đó cần phân tích đánh giá vai trò của từng bị cáo để xem xét quyết định hình phạt tương xứng với hành vi vai trò của các bị cáo.
Đối với bị cáo Q là người giữ vai trò chính, là người trực tiếp mua ma tuý và chia nhỏ ra để bán kiếm lời. Bị cáo cũng là người rủ rê, hứa hẹn cho N sử dụng ma túy hoặc mượn tiền để N giúp cho mình trong việc bán ma túy và thu tiền đưa cho mình.
Bị cáo N giữ vai trò đồng phạm với vai trò là người thực hành trong việc bán ma túy cho Y B Mlô và Y X T Niê, thu tiền đưa cho Q.
[8] Xét tính chất vụ án, vị trí, vai trò, tính chất hành vi phạm tội của các bị cáo, nhân thân của các bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly các bị cáo với xã hội một thời gian nhất định để các bị cáo học tập, cải tạo trở thành người công dân ích cho gia đình và xã hội, đồng thời góp phần giáo dục phòng ngừa tội phạm chung và riêng trong toàn xã hội là phù hợp. Xét vai trò của các bị cáo thì hình phạt áp dụng đối với bị cáo Q cao hơn bị cáo Phan Đ N Niê là phù hợp.
[9] Xét quan điểm của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ tại phiên tòa đề nghị về tội danh, về xử lý vật chứng là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Về đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự người đồng bào dân tộc thiểu số nên nhận thức pháp luật còn hạn chế theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Phan Đ N Niê, Hội đồng xét xử thấy rằng, bị cáo đã bị Toà án nhân dân thị xã Buôn Hồ xử phạt 01 năm 06 tháng tù cũng về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”, bị cáo mới chấp hành xong hình phạt nên bị cáo có đầy đủ nhận thức về hành vi này, do đó đề nghị này của đại diện Viện kiểm sát không có căn cứ chấp nhận.
Về mức hình phạt tù đề nghị áp dụng đối với các bị cáo có phần nghiêm khắc nên Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo là phù hợp.
[10] Về xử lý vật chứng:
[10.1] Đối với 01 túi Ni long trong suốt bên trong có Các cục chất rắn dạng tinh thể màu trắng, có khối lượng 0,0817 gam, loại Methamphetamine, khối lượng còn lại sau giám định là 0,0419 gam, đây là vật Nhà nước cấm lưu hành; 01 ống nỏ thủy tinh trong suốt đã bị vỡ một đầu và 01 cái quẹt gas.
Hội đồng xét xử xét thấy đây là vật chứng của vụ án và là vật nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu huỷ là phù hợp với điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
[10.2] Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung J2 Pro màu xám của Phan Đ N Niê, đây là điện thoại bị cáo N sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước là phù hợp với điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
[11] Về các vấn đề khác:
[11.1] Đối với người phụ nữ bán ma túy cho Q. CQCSĐT đã tiến hành điều tra, xác minh làm rõ nhân thân lai lịch nhưng chưa có kết quả. Do đó, CQCSĐT tiếp tục xác minh, điều tra làm rõ nếu có đủ căn cứ thì xử lý sau.
[11.2] Đối với Y B Mlô là người mua ma túy của các bị cáo về sử dụng, tuy nhiên sau khi phát hiện sự việc Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành xét nghiệm ma túy đối với Y B Mlô, tuy nhiên kết quả là âm tính. Do đó không đủ căn cứ để Cơ quan Cảnh sát điều tra ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý là phù hợp.
[11.3] Đối với Y X T Niê, có hành vi mua ma tuý của các bị cáo về sử dụng, kết quả xét nghiệm chất ma tuý của Bệnh viện Đa khoa thị xã Buôn Hồ vào ngày 24/4/2023, thể hiện kết quả “dương tính” với chất ma tuý. Do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý là có căn cứ pháp luật.
[11.4] Đối với số tiền 500.000đ (Năm trăm ngàn đồng) bị cáo Q thu lợi bất chính do bán ma túy mà có, do đó cần truy thu đối với Võ Ngọc Q số tiền này, để sung công quỹ Nhà nước.
[12] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Võ Ngọc Q và Phan Đ N Niê phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.
[1] Về điều luật áp dụng và hình phạt:
Áp dụng vào điểm b khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Võ Ngọc Q 07 (bảy) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 24/4/2023.
Áp dụng vào điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Phan Đ N Niê 07 (bảy) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 25/4/2023.
[2] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự
[2.1] Tịch thu tiêu hủy: 01 túi Ni long trong suốt bên trong có các cục chất rắn dạng tinh thể màu trắng, có khối lượng 0,0817 gam, loại Methamphetamine, khối lượng còn lại sau giám định là 0,0419 gam; 01 ống nỏ thủy tinh trong suốt đã bị vỡ một đầu và 01 cái quẹt gas.
[2.2] Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung J2 Pro, màu xám.
(Đặc điểm cụ thể theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/7/2023 giữa Chi cục thi hành án dân sự thị xã Buôn Hồ với Cơ quan cảnh sát điều tra công an thị xã Buôn Hồ và vật chứng do Chi cục thi hành án dân sự thị xã Buôn Hồ quản lý).
[2.3] Truy thu nộp ngân sách nhà nước đối với bị cáo Võ Ngọc Q số tiền 500.000đ (Năm trăm ngàn đồng), do thu lợi bất chính từ việc bán ma túy.
[3] Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Các bị cáo Võ Ngọc Q và Phan Đ N Niê, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
[4] Quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 28/2023/HS-ST về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 28/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/08/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về