Bản án 28/2023/HNGĐ-ST về tranh chấp hôn nhân và gia đình ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRI TÔN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 28/2023/HNGĐ-ST NGÀY 12/06/2023 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 12 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tri Tôn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 20/2023/TLST- HNGĐ, ngày 03 tháng 02 năm 2023 về việc “ Tranh chấp hôn nhân và gia đình ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2023/QĐXXST- HNGĐ, ngày 05 tháng 5 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 27/2023/QĐST-HNGĐ, ngày 26/5/2023 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông S, sinh năm 1983; địa chỉ: Số 354, tổ 12, ấp T, xã L, huyện Tri Tôn tỉnh An Giang (có mặt).

Bị đơn: Bà Méas Ma R, sinh năm 1986; địa chỉ: Số 354, tổ 12, ấp T, xã L, huyện Tri Tôn tỉnh An Giang; nơi tạm trú: Tổ 02, ấp A, xã C, huyện Tri Tôn tỉnh An Giang (vắng mặt).

Người làm chứng: Ông Châu S, sinh năm 1956; địa chỉ: Tổ 3, ấp A, xã C, huyện Tri Tôn tỉnh An Giang (vắng mặt).

Người phiên dịch: Ông Chau Pho L – Chức vụ: Giáo viên Trường trung cấp nghề dân tộc nội trú tỉnh An Giang (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và biên bản không tiến hành hòa giải được tại Tòa án ông S trình bày:

Về hôn nhân: Vào năm 2004 ông và bà Ma R quen biết nhau do tự tìm hiểu đến năm 2005 thì chúng tôi có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn số 165/2009, ngày 16/7/2009 tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Thời gian đầu cuộc sống hạnh phúc nhưng từ khoảng tháng 02 năm 2018 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do vợ chồng mang nợ nên cuộc sống khó khăn từ đó vợ bỏ nhà đi từ năm 2018, sau đó bà Ma R có đi đi về về nhưng đến cuối năm 2018 thì vợ bỏ đi luôn không về nhà nữa cho đến nay. Nay tình cảm không còn nên ông S yêu cầu được ly hôn bà Ma R.

Về con chung: Có hai con chung tên Néang Neás Sô Ry T, sinh ngày 01/12/2005 và Siên Ra V, sinh ngày 12/7/2009. Ông yêu cầu được nuôi hai con chung, không yêu cầu vợ cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết Về nợ chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tòa án đã tiến hành đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự cho bị đơn bà Méas Ma R. Tuy nhiên, bà Ma R vẫn không tham gia tố tụng. Vì vậy, Tòa án không tiến hành hòa giải giữa các đương sự được.

Tại phiên tòa nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Nguyên đơn xác định đã cung cấp đầy đủ chứng cứ cho tòa án; không còn cung cấp thêm chứng cứ nào khác.

Hội đồng xét xử công bố kết quả xác minh về tình trạng hôn nhân, nơi cư trú của bà Ma R và biên bản lấy lời khai của ông Châu S.

Phát biểu của Kiểm sát viên về việc tuân theo pháp luật tố tụng, quan điểm giải quyết vụ án:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng: Từ khi thụ lý giải quyết án Thẩm phán đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định tại Điều 35, Điều 68, Điều 97, Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội thẩm nhân dân đã thực hiện đúng quy định về xét xử phiên tòa sơ thẩm.

Về chấp hành pháp luật của đương sự thì nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ, chấp hành đúng quy định tại Điều 71. Tuy nhiên bị đơn đã được tống đạt hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt lần hai nên không thực hiện Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét và kết quả tranh luận của những người tham gia tố tụng tại phiên tòa, nhận thấy theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn có đủ cơ sở để chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Ông S khởi kiện yêu cầu ly hôn bà Méas Ma R có địa chỉ tại số 354, tổ 12, ấp T, xã L, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang và tạm trú tổ 2, ấp A xã C, huyện Tri Tôn tỉnh An Giang nên thuộc tranh chấp ly hôn và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về sự vắng mặt của bị đơn và người làm chứng: Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn bà Ma R và người làm chứng ông S1. Tuy nhiên ông S1 đã có lời khai cho Tòa án. Xét đây là lần vắng mặt thứ hai của bà Ma R và ông S1 nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn và người làm chứng theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 2 Điều 229 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Về hôn nhân: Vào năm 2004 ông S và bà Ma R quen biết nhau do tự tìm hiểu, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn số 165/2009, ngày 16/7/2009 tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang nên đây là hôn nhân hợp pháp phù hợp theo Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình.

Theo lời khai của anh S cho rằng vợ chồng mâu thuẫn từ tháng 02 năm 2018 nguyên nhân do vợ chồng mang nợ nên cuộc sống khó khăn từ đó vợ bỏ nhà đi từ năm 2018, sau đó có đi đi về về nhưng đến cuối năm 2018 thì vợ bỏ đi luôn không về nhà nữa cho đến nay, nay tình cảm không còn ông S yêu cầu được ly hôn.

Biên bản xác minh ngày 22 tháng 3 năm 2023 tại ấp T, xã L địa phương cho biết: Vợ chồng ông S và bà Ma R vẫn còn đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa phương, vợ chồng sống với nhau từ năm 2015 thấy vợ chồng sống hạnh phúc, nhưng đến khoảng năm 2017 thì vợ chồng có mâu thuẫn nên thường xuyên cải nhau đến năm 2018 thì vợ bỏ nhà đi lên thành phố Hồ Chí Minh làm cho đến nay. Về con chung có hai đứa con, hiện tại đang do ông S nuôi dạy và đang sống chung với ông S. Hiện ông S có công việc tại Biên phòng xã Lạc Quới nên lương ổn định còn bà Ma R thì làm công nhân nên cũng có thu nhập nhưng hiện tại không có mặt tại địa phương.

Biên bản xác minh ngày 26 tháng 4 năm 2023 tại ấp A xã C địa phương cho biết: Bà Ma R không còn đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa phương, vì kể từ khi kết hôn đã chuyển hộ khẩu đi bên chồng sinh sống. Có cha là ông Châu S, sinh năm 1956 vẫn còn sinh sống tại địa phương tổ 2, ấp A, xã C, nên thỉnh thoảng vẫn thấy bà Ma R trở về địa phương ở ấp A, xã C.

Biên bản lấy lời khai người làm chứng ông Châu S cho biết: Ông là cha ruột của bà Ma R, hiện tại Ma R đã đi làm ở công ty nhưng vẫn có đi đi về về tại địa phương ấp A, xã C. Theo ông mâu thuẫn vợ chồng của Ma R chủ yếu là mâu thuẫn về kinh tế gia đình nên hiện tại hai đứa con chung của bà Ma R đang do ông S nuôi dưỡng tại địa phương nên khi về quê thì cũng có ghé thăm hai đứa con chung.

Xét thấy, các biên bản lời khai và các biên bản xác minh, phù hợp với nhau về việc vợ chồng có mâu thuẫn chủ yếu là về kinh tế từ năm 2018 cho đến nay, nên vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2018 cho đến nay. Trong thời gian ly thân 05 năm quá lâu để hai bên cùng hàn gắn tình cảm nhưng cả hai cũng không thể hàn gắn lại tình cảm. Đồng thời bà Ma R cũng không còn sinh sống bên chồng cho thấy bà Ma R cũng không cố gắng hàn gắn tình cảm vợ chồng, để mặc cho ông S tự sinh sống tại địa phương. Cho thấy cuộc sống hôn nhân vợ chồng không còn hạnh phúc.

Cho nên, tình trạng hôn nhân vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đủ căn cứ chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh S theo Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Ông S và bà Ma R có hai con chung tên Néang Neás Sô Ry T, sinh ngày 01/12/2005 và Siên Ra V, sinh ngày 12/7/2009. Hiện hai đứa con đang sống với ông S nên ông yêu cầu được nuôi hai đứa con chung, không yêu cầu bà Ma R cấp dưỡng nuôi con chung.

Nhận thấy, hiện tại cháu T và cháu V đều đang do ông S chăm sóc và ông S cũng có đi làm việc tại Đồn biên phòng nên có thu nhập ổn định đảm bảo cho việc nuôi dạy, chăm sóc. Đồng thời tại bản tự khai ngày 14/4/2023 thì hai cháu T và cháu V đều có nguyện vọng được tiếp tục ở với cha. Từ đó để đảm bảo cho môi trường sống cháu T và cháu V được ổn định thì giao cháu T và cháu V cho anh S tiếp tục nuôi dạy là phù hợp, bà Ma R không phải cấp dưỡng nuôi con do ông S không yêu cầu phù hợp quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình, xét chấp nhận.

Căn cứ Điều 58 Luật hôn nhân và gia đình thì sau khi ly hôn cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định pháp luật mà không ai được quyền cản trở.

Trên cơ sở lợi ích của con, khi có yêu cầu của đương sự hoặc cá nhân, tổ chức, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

[4] Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về nợ chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[6] Về án phí: Ông S khởi kiện xin ly hôn nên phải chịu án phí hôn nhân theo mức án phí không giá ngạch.

Bà Ma R không phải chịu án phí hôn nhân.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 9, Điều 56, Điều 58, khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 144, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 2 Điều 229, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Chấp nhận toàn bộ cầu khởi kiện của ông S.

Về hôn nhân: Ông S được ly hôn với bà Méas Ma R Giấy chứng nhận kết hôn số 165/2009, ngày 16/7/2009 tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý Về con chung: Ông S được tiếp tục nuôi dạy con chung tên Néang Neás Sô Ry T, sinh ngày 01/12/2005 và S Ra V, sinh ngày 12/7/2009. Bà Méas Ma R không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định pháp luật mà không ai được quyền cản trở.

Trên cơ sở lợi ích của con, khi có yêu cầu của đương sự hoặc cá nhân, tổ chức, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về nợ chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Về án phí: Ông S phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí hôn nhân, gia đình sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0009840 ngày 09/01/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tri Tôn.

Bà Méas Ma R không phải chịu án phí hôn nhân.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự có mặt có quyền kháng cáo đến Tòa án nhân dân tỉnh An Giang để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Riêng đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 28/2023/HNGĐ-ST về tranh chấp hôn nhân và gia đình ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:28/2023/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tri Tôn - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;