Bản án 28/2021/HS-ST ngày 14/04/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÓC SƠN - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

 BẢN ÁN 28/2021/HS-ST NGÀY 14/04/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 22/2021/TLST-HS ngày 15 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2021/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo:

Dương Văn T, sinh 1994, (tên gọi khác không) tại Hà Nội.

Nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn K, xã D, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: lớp 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con Dương Văn T, sinh năm 1972; và bà Dương Thị T, sinh năm 1972; vợ, con: chưa; tiền án: không; Tiền sự: không; Nhân thân: không; Tạm giữ, tạm giam: từ ngày 18/12/2020 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Anh Nguyễn Thành Đ, sinh năm 1994;

Trú tại: Thôn K, xã D, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09h30’ ngày 18/12/2020, Dương Văn T đang ở phòng trọ tại thôn L, xã X, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội thì Nguyễn Thành Đ gọi điện từ số thuê bao 0983833923 điện đến số thuê bao 0974913204 của T đặt mua 500.000 đồng ma túy “đá”. T đồng ý và hẹn địa điểm giao ma túy ở khu vực trước cửa Phòng khám đa khoa A, thuộc thôn L, xã X để giao nhận ma túy. Khoảng 10 phút sau, T giấu 01 túi nilon chứa ma túy trong 01 vỏ bao thuốc lá cầm trong lòng bàn tay phải và đi bộ từ phòng trọ ra rìa đường gần đó khoảng 20m thì bị cơ quan công an kiểm tra, phát hiện và tạm giữ T cùng tang vật.

Về nguồn gốc số ma túy, T khai nhận do T mua của một người nam giới không quen biết vào khoảng 21 giờ ngày 17/12/2020 tại thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc với giá 500.000 đồng được một túi nilon chứa ma túy đá. Sau đó, sáng ngày 18/12/2020, khi có người hỏi mua ma túy, T chia số ma túy trên thành 02 túi nilong, 01 túi nilong mang đi để bán, còn 01 túi nilong cất giấu ở trong phòng trọ để T sử dụng dần hoặc ai hỏi mua thì bán.

Ngoài ra, T khai thêm tại phòng trọ mà T đang thuê có địa chỉ thuộc thôn L, xã X, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội vẫn còn ma túy. Cơ quan Công an dẫn giải T về phòng trọ của T đang thuê, T tự giác giao nộp 01 túi nilon kích thước khoảng 1x1,5cm chứa tinh thể màu trắng đựng trong hộp nhựa dưới gầm giường và 05 vỏ túi nilon trong hộp giấy dưới nền nhà.

Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở (phòng trọ) đối với T không phát hiện tạm giữ gì thêm.

Cơ quan Công an tiến hành rà soát tại khu vực xung quanh thôn L, xã X, huyện Sóc Sơn, cách vị trí kiểm tra T khoảng 100m phát hiện đối tượng nam giới tự khai tên Nguyễn Thành Đ có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu Đ về trụ sở làm việc. CQĐT tạm giữ của Đ 01 điện thoại di động có số thuê bao 0983833923.

Tại Kết luận giám định số 10980/KLGĐ-PC09 ngày 24/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an TP Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi ni lông (Ký hiệu A) là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,263 gam. Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi ni lông (Ký hiệu B) là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,082 gam.

Tại bản cáo trạng số 18/CT-VKS ngày 10/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Dương Văn T về tội Mua bán trái phép chất ma túy, theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên anh Nguyễn Thành Đ vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai trong hồ sơ.

Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 18/12/2020, anh gọi điện cho Dương Văn T từ điện thoại của mình có số thuê bao là 0983833923 để đặt vấn đề mua 500.000đồng ma túy của T, T đồng ý và hẹn anh ở khu vực trước cửa phòng khám đa khoa A để giao ma túy. Sau đó do anh không có tiền mua ma túy nên đã từ bỏ ý định mua ma túy nhưng vẫn đến điểm hẹn gặp T để từ chối mua ma túy. Đối với chiếc điện thoại của anh đã dùng để gọi cho T đặt vấn đề mua ma túy là của anh. Nay cơ quan Công an có thu giữ của anh 01 chiếc điện thoại, anh không có ý kiến gì.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố sau khi phân tích nội dung, tính chất vụ án cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh như Cáo trạng đã nêu. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự;Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 136, Điều 332, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

- Xử phạt Dương Văn T với mức án từ 24 tháng đến 27 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ: 18/12/2020;

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 02 phong bì niêm phong ma túy có chữ ký của Dương Văn T và giám định viên; 05 vỏ túi nilong; Tịch thu sung quỹ: 01 điện thoại Nokia màu xanh; 01 điện thoại di nhãn hiệu Nokia màu xám.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện.

[2] Về hành vi phạm tội: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản thu giữ vật chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ ngày 18/12/2020, tại thôn L, xã X, huyện Sóc Sơn, TP Hà Nội, Dương Văn T có hành vi bán trái phép 0,263 gam ma túy loại Methamphetamine cho Nguyễn Thành Đ, nhưng T chưa kịp giao ma túy cho Đ thì bị lực lượng Công an huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội kiểm tra, phát hiện. Ngoài ra, T còn có hành vi cất giấu 0,082 gam ma túy loại Methamphetamine tại phòng trọ của mình nhằm mục đích sử dụng và bán cho người nghiện để kiếm lời. Hành vi bán ma túy và hành vi cất giấu ma túy tại nơi mình ở nhằm mục đích để bán kiếm lời của Dương Văn T đã cấu thành tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn truy tố Dương Văn T về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất của vụ án: Vụ án có tình chất rất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, chẳng những xâm phạm đến chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước mà còn gây mất trật tự trị an xã hội ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển nòi giống của dân tộc. Tệ nạn ma túy không những làm suy kiệt đến kinh tế của mỗi gia đình mà còn là nguyên nhân gây ra các loại tội phạm nguy hiểm khác, bị cáo nhận thức được hành vi mua bán, tàng trữ các chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện tội phạm, do đó cần thiết áp dụng mức hình phạt thật nghiêm minh đối với bị cáo.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đó là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Mặc dù bị cáo có nơi cư trú ổn định rõ ràng nhưng hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng nên cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định có như vậy mới có đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

Đối với người bán ma túy cho bị cáo, bị cáo khai mua của 01 người không rõ tên, tuổi, địa chỉ nên Cơ quan CSĐT - Công an huyện Sóc Sơn không có căn cứ để điều tra, làm rõ người bán ma túy cho bị cáo trong vụ án này là phù hợp.

[5] Về hình phạt bổ sung: Cơ quan điều tra xác minh: bị cáo có mức thu nhập thấp nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: Đối với 02 phong bì niêm phong ma túy có chữ ký của Dương Văn T và giám định viên là chất cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy; đối với 05 vỏ túi nilong là phương tiện sử dụng vào việc phạm tội, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy; Đối với 01 điện thoại Nokia màu xanh; 01 điện thoại di nhãn hiệu Nokia màu xám tạm giữ của bị cáo và của Nguyễn Thành Đ đều là phương tiện sử dụng vào việc phạm tội, anh Nguyễn Thành Đ không có ý kiến gì về chiếc điện thoại bị tạm giữ nên cần tịch thu sung quỹ.

[7] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Về hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; Tuyên bố bị cáo Dương Văn T phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”; Xử phạt Dương Văn T: 24 (hai mươi tư) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ: 18/12/2020.

2. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 02 phong bì niêm phong ma túy có chữ ký của Dương Văn T và giám định viên; 05 vỏ túi nilong. Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động Nokia màu xanh; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xám. Tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Công an huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.

3. Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 22 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm bị cáo được quyền kháng cáo. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

126
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 28/2021/HS-ST ngày 14/04/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:28/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sóc Sơn - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;