TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 28/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/04/2021 VỀ XIN LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Vào ngày 22 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 488/2020/TLST-HNGĐ ngày 17/11/2020 về việc “Xin ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 01/4/2021, giữa:
- Nguyên đơn: Bà Kha Thị Cẩm H, sinh năm 1985. Địa chỉ: Tổ 8, ấp L, xã T, huyện C, tỉnh Long An. Địa chỉ liên hệ: Lê Hồng Phong, Khu 5, phường P, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương (có đơn xin vắng mặt).
- Bị đơn: Ông Nguyễn Phạm Minh T, sinh năm 1984. Địa chỉ: đường ĐX 109, Khu 9, phường T, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương (Có đơn xin vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện đề ngày 07/9/2020, bản tự khai ngày 25/9/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Kha Thị Cẩm H trình bày:
Bà và ông Nguyễn Phạm Minh T kết hôn năm 2018, có đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện C, tỉnh Long An theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 64/2018 ngày 17/8/2018. Hôn nhân của bà và ông T hoàn toàn tự nguyện.
Sau khi kết hôn vợ chồng bà chung sống hạnh phúc được một thời gian, sau đó phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng không hợp nhau, thường xuyên tranh cãi, hiện tại mạnh ai nấy sống, không quan tâm chăm sóc nhau, cuộc sống lạnh nhạt, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng khi bà không được gia đình chồng tôn trọng. Bà và ông T đã sống ly thân từ tháng 6/2020. Vì vậy, bà H yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông T.
Về con chung: Trong quá trình chung sống, bà và ông T có một con chung tên Nguyễn Phạm Kha M, sinh ngày 07/01/2019. Bà H yêu cầu được nuôi dưỡng cháu M, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu tòa án giải quyết.
Kèm theo đơn khởi kiện: Bà H đã nộp giấy chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu của bà (bản photo chứng thực); Trích lục kết hôn (bản sao); giấy khai sinh của cháu M (bản sao);
* Đối với bị đơn ông Nguyễn Phạm Minh T: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng như Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Thông báo hoãn phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; quyết định xét xử, các giấy triệu tập. Tuy nhiên, bị đơn không đến Tòa án tham gia tố tụng, không gửi văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nhưng ông Tú có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã tiến hành đầy đủ các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng quy định tại các Điều 70, 71, 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không có văn bản ý kiến nhưng có đơn xin vắng mặt. Đại diện Viện kiểm sát không có ý kiến và yêu cầu khắc phục gì thêm về tố tụng. Về mặt nội dung: căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nhận thấy: Mâu thuẫn giữa bà H và ông T đã trầm trọng, không thể hàn gắn làm cho mục đích của hôn nhân không đạt được nên đề nghị chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình. Về con chung, nhận thấy cháu M còn nhỏ, chưa đủ 03 tuổi và hiện đang sống cùng bà H nên việc bà H yêu cầu nuôi con chung là có cơ sở theo Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình. Về cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung và nợ chung: Bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, qua ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về tố tụng:
Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại Khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 35 và điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Nguyên đơn và bị đơn đều có đơn xin xét xử vắng mặt nên căn cứ theo quy định tại Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.
[2]. Về nội dung:
[2.1] Bà Kha Thị Cẩm H và ông Nguyễn Phạm Minh T kết hôn năm 2018, có đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện C, tỉnh Long An theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 64/2018, ngày 17/8/2018, đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ.
[2.2]. Theo bà H khai: Mâu thuẫn vợ chồng xuất phát từ việc bất đồng quan điểm sống, cách suy nghĩ, mạnh ai nấy sống, không quan tâm chăm sóc nhau, thường xuyên cãi vã nhau. Bà và ông T đã ly thân từ tháng 6/2020 cho đến nay, ông T không quan tâm hay qua lại thăm con. Hiện nay, vợ chồng không còn tình cảm, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu được ly hôn với ông T.
Xét thấy, trong hôn nhân vợ chồng phải yêu thương, tôn trọng, chăm sóc, giúp đỡ cho nhau về mọi mặt để xây dựng hạnh phúc gia đình. Mặc dù trong cuộc sống vợ chồng không thể tránh khỏi những mâu thuẫn, xung đột nhưng vợ chồng phải tìm cách giải quyết, hàn gắn. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thông báo cho ông T về nội dung yêu cầu của bà H, các thông báo và triệu tập để hòa giải, giải quyết vụ án nhưng ông T vẫn không đến Tòa án làm việc và cũng không có bất kỳ ý kiến nào đối với yêu cầu khởi kiện của bà H, chứng tỏ ông T không có ý muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng; bà H khẳng định vợ chồng đã ly thân từ tháng 6/2020 đến nay không thể hàn gắn được nên cương quyết yêu cầu ly hôn. Do đó, có cơ sở để khẳng định mâu thuẫn giữa vợ chồng bà H và ông T nghiêm trọng, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, mục đích của hôn nhân không đạt được nên yêu cầu xin ly hôn của bà H là có cơ sở.
[2.3] Về con chung: Bà H và ông T có một con chung là cháu Nguyễn Phạm Kha M, sinh ngày 07/01/2019. Bà H yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi con chung. Xét thấy: Hiện tại cháu M còn nhỏ, dưới 36 tháng tuổi và đang sống cùng bà H. Vì vậy, căn cứ khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 giao cháu M cho bà H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp.
- Ông T có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được quyền cản trở. Trường hợp ông T lạm dụng quyền thăm nom con để gây khó khăn, cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung thì bà H có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm con, chăm sóc con chung theo quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
- Về cấp dưỡng: Bà H không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con nên không giải quyết.
- Vì quyền và lợi ích hợp pháp của con chung chưa thành niên là cháu M, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con khi có yêu cầu.
[2.4] Về tài sản chung, nợ chung: các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.
[3] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.
[4] Về án phí sơ thẩm: Đương sự phải nộp theo quy định pháp luật. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39, các điều 147, 227, 228, 266, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;
- Áp dụng các điều 56, 81, 82, 83, 84, 110 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;
- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 do Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ban hành ngày 30/12/2016.
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Kha Thị Cẩm H đối với ông Nguyễn Phạm Minh T về việc “Xin ly hôn, tranh chấp nuôi con”.
1/ Về quan hệ vợ chồng: Bà Kha Thị Cẩm H được ly hôn với ông Nguyễn Phạm Minh T Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật, giấy chứng nhận kết hôn số 64/2018, ngày 17/8/2018 do UBND xã L, huyện C, tỉnh Long An cấp cho bà H và ông T không còn giá trị pháp lý.
2/ Về con chung: Giao cháu Nguyễn Phạm Kha M, sinh ngày 07/01/2019 cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục.
- Ông T có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được quyền cản trở. Trường hợp ông T lạm dụng quyền thăm nom con để gây khó khăn, cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung thì bà H có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm con, chăm sóc con chung theo quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
- Về cấp dưỡng: Bà H không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.
- Vì quyền và lợi ích hợp pháp của con chung chưa thành niên là cháu M, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con khi có yêu cầu.
- Về tài sản chung, nợ chung: các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.
3/ Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm:
- Bà Kha Thị Cẩm H phải nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng), được trừ hết vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0050535 ngày 16/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc kể từ ngày Bản án được niêm yết công khai theo quy định
Bản án 28/2021/HNGĐ-ST ngày 22/04/2021 về xin ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 28/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 22/04/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về