Bản án 28/2021/HNGĐ-ST ngày 22/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ VĨNH CHÂU, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 28/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/04/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 22/4/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm, công khai vụ án dân sự thụ lý số: 342/2020/TLST-HNGĐ, ngày 11 tháng 12 năm 2020, về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 12/3/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số: 14/2021/QĐST-HNGĐ ngày 01/4/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Quách Văn L, sinh năm 1981; Địa chỉ: khóm A, phường B, thị xã VC, tỉnh Sóc Trăng. (Có mặt)

- Bị đơn: Chị Lâm Thị Mỹ A, sinh năm 1991; Địa chỉ: ấp L, xã H, thị xã VC, tỉnh Sóc Trăng. (Vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 03/12/2020 (BL20), cũng như quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn anh Quách Văn L trình bày: Anh Quách Văn L và chị Lâm Thị Mỹ A tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng và có đi đăng ký kết hôn tại UBND phường B, thị xã Vĩnh Châu và được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 27/9/2012. Thời gian đầu hai vợ chồng chung sống với nhau rất hạnh phúc, nhưng đến giữa năm 2018 thì hai vợ chồng bắt đầu phát sinh nhiều mâu thuẫn và hai người đã ly thân với nhau từ khoảng tháng 10 năm 2018 cho đến nay. Trong quá trình chung sống với nhau anh L và chị A có với nhau 01 người con chung tên Quách Tấn H, sinh ngày 23/01/2014 (nam) hiện cháu H đang sống với với anh L. Về tài sản chung tự thỏa thuận với nhau. Về nợ chung không có.

Nay anh L nhận thấy tình cảm vợ chồng rạn nứt, không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được do đó yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh L được ly hôn với chị Mỹ A. Về con chung anh L yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Quách Tấn H, sinh ngày 23/01/2014 (nam) đến đủ 18 tuổi, không yêu cầu chị Mỹ A phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: Tự thỏa thuận phân chia với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho chị Mỹ A, nhưng chị Mỹ A không có văn bản gửi đến Tòa án để trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của anh L, đồng thời chị Mỹ A cũng không đến tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như tham gia phiên tòa.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu xác định: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng dân sự. Từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật, tuy nhiên sự chấp hành pháp luật của bị đơn chưa đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho anh L được ly hôn với chị Mỹ A, giao con chung là cháu Quách Tấn H, sinh ngày 23/01/2014 (nam) cho anh L nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi và cũng theo nguyện vọng của cháu H nếu cha mẹ không còn sống chung với nhau thì cháu H có nguyện vọng sống với anh L. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Ghi nhận sự tự nguyện của anh L không yêu cầu chị Mỹ Anh phải cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung, nợ chung: Tự thỏa thuận phân chia với nhau về tài sản chung. Nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tòa án đã tống đạt hợp lệ Giấy triệu tập xét xử đến lần thứ hai cho chị Mỹ A, nhưng chị Mỹ A vẫn vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự xét xử vắng mặt chị Mỹ A.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét yêu cầu khởi kiện của anh Quách Văn L nhận thấy hôn nhân của anh L và chị Mỹ A là tự tìm hiểu và đến với nhau, có tổ chức lễ cưới vào năm 2012 và có đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường B, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng và được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 27/9/2012. Quan hệ hôn nhân của anh L và chị Mỹ A không vi phạm các điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Nhưng sau một thời gian chung sống, đến năm 2018 vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chính là do tính tình vợ chồng không còn hòa hợp với nhau thường hay xảy ra mâu thuẫn cãi vã nhau. Anh L nhận thấy cuộc sống chung không hạnh phúc, không còn tình cảm vợ chồng với chị Mỹ A nên có nguyện vọng ly hôn. Anh L và chị Mỹ A đã không còn chung sống với nhau từ khoảng tháng 10 năm 2018 cho đến nay. Hội đồng xét xử đã phân tích động viên anh L suy nghĩ lại, hàn gắn tình cảm vợ chồng với chị Mỹ A, nhưng anh L vẫn cương quyết ly hôn, từ đó cho thấy tình trạng hôn nhân giữa các bên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận cho anh L được ly hôn với chị Mỹ A.

[3] Về con chung: Thời gian chung sống với nhau anh L và chị Mỹ A có 01 người con chung tên Quách Tấn H, sinh ngày 23/01/2014 (nam) anh L yêu cầu được nuôi dưỡng con chung đến đủ 18 tuổi, không yêu cầu chị Mỹ A phải cấp dưỡng nuôi con và ý kiến của cháu H nếu cha mẹ không sống chung với nhau, cháu H có nguyện vọng sống chung với anh L. Để đảm bảo cuộc sống của cháu H không bị xáo trộn, để cháu phát triển bình thường về tâm, sinh lý nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình, giao cháu Quách Tấn H cho anh L nuôi dưỡng. Xét thấy, anh L hiện có việc làm, thu nhập ổn định, đảm bảo đủ điều kiện nuôi con nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của anh L không yêu cầu chị Mỹ A cấp dưỡng nuôi con chung.

[4] Về tài sản chung: Anh L khẳng định tự thỏa thuận phân chia với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Về nợ chung: Anh L khẳng định nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Từ những phân tích nêu trên, xét yêu cầu của nguyên đơn, đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Án phí sơ thẩm: Anh L phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Khoản 3 Điều 36, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 1 Điều 273, khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Căn cứ vào điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử :

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Quách Văn L đối với bị đơn chị Lâm Thị Mỹ A.

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Quách Văn L được ly hôn với chị Lâm Thị Mỹ A.

- Về con chung: Giao con chung là cháu Quách Tấn H, sinh ngày 23/01/2014 (nam) cho anh L trực tiếp nuôi dưỡng đến khi cháu H đủ 18 tuổi.

Chị Lâm Thị Mỹ A không phải cấp dưỡng nuôi con, chị Mỹ A có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở. Chị Mỹ A không được lạm dụng việc thăm nom con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Quách Tấn H của anh Quách Văn L thì anh L có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom.

- Về tài sản chung: Anh L khẳng định tự thỏa thuận phân chia với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

- Về nợ chung: Anh L khẳng định nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

2/ Về án phí sơ thẩm: Anh Quách Văn L phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí anh L đã nộp 300.000 đồng, theo Biên lai số 0006465, ngày 10/12/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, anh L đã thực hiện xong nghĩa vụ nộp án phí. Chị Lâm Thị Mỹ A không phải chịu án phí sơ thẩm.

3/ Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ, để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014). 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

151
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 28/2021/HNGĐ-ST ngày 22/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:28/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Vĩnh Châu - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;