Bản án 28/2021/HNGĐ-ST ngày 09/03/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con và chia tài sản khi ly hôn 

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 28/2021/HNGĐ-ST NGÀY 09/03/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON VÀ CHIA TÀI SẢN KHI LY HÔN 

Ngày 09 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 817/2020/HNGĐ-ST ngày 13/10/2020 về việc “tranh chấp ly hôn, nuôi con và chia tài sản khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 02 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1977. Địa chỉ: Đường N, khu phố M, phường E, thành phố I, tỉnh Bình Dương. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Ông Hoàng Văn N, sinh năm 1973. Địa chỉ: Đường N, khu phố M, phường E, thành phố I, tỉnh Bình Dương. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 02/10/2020; đơn khởi kiện bổ sung ngày 13/11/2020; đơn thay đổi yêu cầu chia tài sản ngày 01/12/2020; các bản tự khai ngày 12/11/2020, ngày 18/12/2020, ngày 01/3/2021; đơn trình bày ngày 22/01/2021 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà T và ông Hoàng Văn N tự nguyện chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã A, huyện B, tỉnh Hưng Yên cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 27, Quyển số 09, ngày 24/9/1998. Sau khi kết hôn, thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc và có 02 con chung. Đến năm 2010, vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vả nhau, không tôn trọng nhau, tình cảm lạnh nhạt và không thể hàn gắn được. Nhận thấy, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, bà T có đơn khởi kiện ly hôn ông N. Tuy nhiên, sau khi được Tòa án giải thích và cũng như cho ông N thêm cơ hội để thay đổi tính tình chung sống hòa thuận với vợ và các con nên bà T đã rút đơn khởi kiện nhưng sau khi bà T rút đơn khởi kiện thì ông N vẫn không thay đổi tính tình, không tôn trọng vợ con, do đó bà T đã nộp lại đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn đối với ông N.

Về con chung: Bà T và ông N có 02 con chung Hoàng Đình P, sinh ngày 02/7/1999 và Hoàng Thị Mai H, sinh ngày 17/8/2007. Khi ly hôn bà T yêu cầu được quyền nuôi dưỡng cháu Hoàng Thị Mai H, sinh ngày 17/8/2007 vì hiện tại cháu H đang do bà T nuôi dưỡng cho ăn học. Bà T yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng. Đối với con chung Hoàng Đình P, sinh ngày 02/7/1999 đã thành niên nên bà T không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản chung: Bà T yêu cầu Tòa án chia đôi tài sản chung của vợ chồng là đất và căn nhà gắn liền với đất diện tích 33,2m2 thuộc thửa đất 4850, tờ bản đồ số N tọa lạc tại khu phố M, phường E, thị xã (nay là thành phố) I, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp GCN: CS25814 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Dương cấp ngày 08/5/2019 cho bà Nguyễn Thị T. Bà T nhận tài sản bằng hiện vật và đồng ý thanh toán cho ông N ½ giá trị tài sản. Tại đơn thay đổi yêu cầu chia tài sản khi ly hôn ngày 01/12/2020, bà T rút lại yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn và không tranh chấp nữa mà bà T tự thỏa thuận với ông N, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại các bản tự khai ngày 27/10/2020, ngày 18/12/2020, ngày 01/3/2021 và quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Hoàng Văn N trình bày:

Ông N thống nhất với lời trình bày của bà T về quan hệ hôn nhân, mâu thuẫn vợ chồng, con chung. Ông N và bà T tự nguyện tìm hiểu nhau được 06 tháng, sau đó tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện B, tỉnh Hưng Yên theo Giấy chứng nhận kết hôn số 27, Quyển số 09, ngày 24/9/1998. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc và có 02 con chung. Đến giữa năm 2019, vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do công việc làm ăn không ổn định, vợ chồng không tôn trọng nhau mà thường xuyên cãi vả dẫn đến nhiều áp lực trong cuộc sống, tình cảm cũng dần dần không còn như trước. Do sợ các con bị ảnh hưởng, sau này về già không ai chăm sóc nên ông N không đồng ý ly hôn bà T.

Về con chung: Ông N và bà T có 02 con chung Hoàng Đình P, sinh ngày 02/7/1999 và Hoàng Thị Mai H, sinh ngày 17/8/2007. Trường hợp Tòa án giải quyết cho ông N và bà T ly hôn thì ông N đồng ý để bà T được quyền nuôi dưỡng cháu Hoàng Thị Mai H, sinh ngày 17/8/2007. Ông N không đồng ý cấp dưỡng nuôi con. Đối với con chung Hoàng Đình P, sinh ngày 02/7/1999 đã thành niên nên ông N không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản chung: Quá trình sống chung vợ chồng đã tạo lập các tài sản chung là căn nhà gắn liền với đất diện tích 33,2m2 thuộc thửa đất 4850, tờ bản đồ số N tọa lạc tại khu phố M, phường E, thị xã (nay là thành phố) I, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp GCN: CS25814 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Dương cấp ngày 08/5/2019 cho bà Nguyễn Thị T và mảnh đất tại phường F, thành phố H, tỉnh Bình Dương. Tuy nhiên, ông N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Ông N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa sơ thẩm, bà T và ông N có yêu cầu giải quyết vắng mặt. Đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

Về nội dung: Bà T có đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn ông N. Ông N không đồng ý ly hôn bà T nhưng thống nhất nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng. Trước đây vào tháng 6/2020, bà T cũng đã có đơn khởi kiện ly hôn ông N nhưng sau đó rút đơn, nay bà T nộp lại đơn khởi kiện ly hôn ông N, cho thấy mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó yêu cầu khởi kiện ly hôn của bà T là có căn cứ. Về con chung: Bà T và ông N đều xác định có 02 con chung Hoàng Đình P, sinh ngày 02/7/1999 và Hoàng Thị Mai H, sinh ngày 17/8/2007. Đối với con chung Hoàng Đình P đã thành niên, bà T và ông N đều không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đối với con chung Hoàng Thị Mai H, sinh ngày 17/8/2007, là bé gái, mới hơn 13 tuổi, bà T và ông N thống nhất giao cho bà T được quyền nuôi dưỡng cháu H. Ông N không trực tiếp nuôi dưỡng con chung nên phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con là phù hợp, đúng quy định của pháp luật.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời trình bày của các đương sự và ý kiến của Kiểm sát viên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Nguyễn Thị T khởi kiện tranh chấp ly hôn, nuôi con đối với ông Hoàng Văn N. Bà T và ông N có địa chỉ tạm trú tại đường N, khu phố M, phường E, thành phố I, tỉnh Bình Dương. Căn cứ các Điều: 28, 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

[1.2] Về sự có mặt của đương sự tại phiên tòa: Bà T và ông N đều có yêu cầu giải quyết, xét xử vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bà T và ông N theo quy định các Điều: 227, 228, 238 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị T và ông Hoàng Văn N tự nguyện tìm hiểu nhau, rồi tiến tới hôn nhân và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện B, tỉnh Hưng Yên theo Giấy chứng nhận kết hôn số 27, Quyển số 09, ngày 24/9/1998 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình sống chung, thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc và có 02 con chung cháu Hoàng Đình P và Hoàng Thị Mai H nhưng sau đó, vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vả, không tôn trọng nhau, tình cảm lạnh nhạt và không thể hàn gắn được. Nhận thấy, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, bà T khởi kiện ly hôn ông N. Quá trình giải quyết vụ án, ông N thống nhất với lời trình bày của bà T về mâu thuẫn vợ chồng. Tuy nhiên, sợ các con bị ảnh hưởng, sau này về già không ai chăm sóc nên ông N không đồng ý ly hôn bà T. Xét, yêu cầu ly hôn của bà T thấy rằng theo quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình về tình nghĩa vợ chồng quy định“1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình…”; bà T và ông N đều xác định quá trình sống chung, vợ chồng có mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, không thể hàn gắn tình cảm được, bà T đã từng có đơn khởi kiện ly hôn ông N nhưng sau đó rút đơn khởi kiện và được Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An ra Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 83/2020/QĐST-HNGĐ ngày 30/6/2020, vì vậy mục đích hôn nhân giữa bà T và ông N không đạt được, do đó vì quyền lợi chung của hai bên nên cần phải chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T đối với ông N, phù hợp Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung: Quá trình giải quyết vụ án, bà T và ông N đều xác định có 02 con chung Hoàng Đình P, sinh ngày 02/7/1999 và Hoàng Thị Mai H, sinh ngày 17/8/2007. Tuy nhiên, con chung Hoàng Đình P đã thành niên nên bà T và ông N đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không xem xét giải quyết. Đối với con chung Hoàng Thị Mai H, sinh ngày 17/8/2007, là bé gái, mới hơn 13 tuổi, bà T và ông N đều thống nhất giao cho bà T được quyền nuôi dưỡng con chung. Tại bản tự khai ngày 14/12/2020 cháu Hoàng Thị Mai H có yêu cầu được sống với bà T. Do đó, yêu cầu được quyền nuôi dưỡng con chung của bà T là có căn cứ chấp nhận, phù hợp Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà T yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng cho đến khi con chung Hoàng Thị Mai H, sinh ngày 17/8/2007 đủ 18 tuổi. Ông N không đồng ý cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, tại khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình quy định như sau: “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con” và Điều 110 Luật Hôn nhân và gia đình quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con như sau: “Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con…”. Cháu Hoàng Thị Mai H, sinh ngày 17/8/2007, mới hơn 13 tuổi vẫn còn nhỏ. Ông N và bà T đều có nghề nghiệp ổn định (ông N làm nghề Thạch Cao, còn bà T bán hàng hóa), thu nhập hàng tháng trung bình 7.000.000 – 8.000.000 đồng/tháng. Do đó, để cháu H được chăm sóc, phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần...nên cần chấp nhận yêu cầu của bà T về việc ông N có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng cho đến khi con chung Hoàng Thị Mai H đủ 18 tuổi.

[2.4] Về tài sản chung: Bà T có đơn khởi kiện bổ sung yêu cầu Tòa án chia đôi tài sản chung của vợ chồng là đất và căn nhà gắn liền với đất diện tích 33,2m2 thuộc thửa đất 4850, tờ bản đồ số N tọa lạc tại khu phố M, phường E, thị xã (nay là thành phố) I, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp GCN: CS25814 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Dương cấp ngày 08/5/2019 mang tên Nguyễn Thị T. Tại đơn thay đổi yêu cầu chia tài sản khi ly hôn ngày 01/12/2020, bà T rút lại yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử đình chỉ phần yêu cầu khởi kiện chia tài sản chung theo khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2.5] Về nợ chung: Bà T và ông N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Ý kiến của Kiểm sát viên là phù hợp pháp luật.

[4] Về án phí:

[4.1] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà T phải chịu theo quy định của pháp luật.

[4.2] Về án phí cấp dưỡng nuôi con: Ông N phải chịu theo quy định của pháp luật.

[4.3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà T không phải chịu và được nhận lại tiền tạm ứng án phí.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các Điều: 28, 37, 39, 147, 227, 228, 238, 244, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ các Điều: 51, 56, 81, 82, 83, 84, 110 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T đối với ông Hoàng Văn N về việc tranh chấp chia tài sản chung.

2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T đối với ông Hoàng Văn N về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị T được ly hôn ông Hoàng Văn N.

- Về con chung: Bà Nguyễn Thị T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung Hoàng Thị Mai H, sinh ngày 17/8/2007. Ông Hoàng Văn N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp ông Hoàng Văn N lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì bà Nguyễn Thị T có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của ông Hoàng Văn N. Vì quyền lợi hợp pháp của con, việc cấp dưỡng nuôi con, thay đổi người nuôi con sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Ông Hoàng Văn N có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con Hoàng Thị Mai H, sinh ngày 17/8/2007 số tiền 2.000.000 đồng/tháng cho đến khi con chung Hoàng Thị Mai H đủ 18 tuổi.

- Về nợ chung: Bà Nguyễn Thị T và ông Hoàng Văn N không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem xét giải quyết.

3. Về án phí:

- Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng, được trừ vào 300.000 đồng đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0048672, ngày 13/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

- Về án phí cấp dưỡng nuôi con: Ông Hoàng Văn N phải chịu 300.000 đồng.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị T không phải chịu. Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Dĩ An hoàn trả lại cho bà T số tiền 5.000.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0049007, ngày 20/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo quy định các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hạn thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bà Nguyễn Thị T và ông Hoàng Văn N được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

511
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 28/2021/HNGĐ-ST ngày 09/03/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con và chia tài sản khi ly hôn 

Số hiệu:28/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;