Bản án 28/2021/DS-ST ngày 19/02/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KẾ SÁCHTỈNH SÓC TRĂNG 

BẢN ÁN 28/2021/DS-ST NGÀY 19/02/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 19/02/2021, tại phòng xử án thuộc trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kế Sách xét xử sơ thẩm công khai vụ án Dân sự thụ lý số 184/2020/TLST-DS ngày 15/7/2020 về việc “Tranh chấp Hợp đồng vay tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2021/QĐXXST-DS ngày 15/01/2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 31/2021/QĐST- DS ngày 01/02/2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng C, địa chỉ: Số X, Phố L, phường H, quận H, thành phố Hà Nội. Người đại diện theo pháp luật: Ông Dương Quyết T, chức vụ Tổng Giám đốc, đã ủy quyền cho ông Đỗ Long T, chức vụ: Giám đốc Phòng giao dịch Ngân hàng C huyện K, tỉnh Sóc Trăng, địa chỉ: ấp A, thị trấn K, huyện K, tỉnh Sóc Trăng (theo Quyết định ủy quyền số X1). Ông Đỗ Long T ủy quyền cho ông Nguyễn Chí C, chức vụ: Phó Giám đốc Phòng giao dịch Ngân hàng C huyện K, tỉnh Sóc Trăng theo Giấy ủy quyền số X2 (ông C có mặt).

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1972 (vắng mặt).

Địa chỉ: ấp Y, xã B, huyện K, tỉnh Sóc Trăng.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Phan Thị Lý B, sinh năm 1974 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp Y, xã B, huyện K, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Căn cứ vào đơn khởi kiện của nguyên đơn, qua xem xét lời khai và yêu cầu của các đương sự, qua xét hỏi trước tòa, nội dung vụ án được xác định như sau: Theo đơn khởi kiện ngày 17/11/2020, trong quá trình giải quyết vụ án, phía Ngân hàng C trình bày: Thực hiện các chương trình tín dụng cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác, vào ngày 17/8/2015 Ngân hàng C phê duyệt cho hộ ông Nguyễn Văn V, vay số tiền 3.000.000 đồng, lãi suất 0,55%/tháng, thời hạn cho vay 60 tháng, kỳ hạn trả nợ 12 tháng/lần, hạn trả cuối cùng là ngày 17/8/2020, của chương trình cho vay: Hộ nghèo, mục đích sử dụng để cải tạo vườn cam.

Nhưng trong quá trình thực hiện hợp đồng hộ ông Nguyễn Văn V đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán (kể cả vốn gốc và tiền lãi) theo thỏa thuận. Tính đến nay hộ ông Nguyễn Văn V chưa trả khoản nợ gốc nào và đã trả lãi 170.000 đồng Tổng cộng số tiền còn nợ là 3.860.000 đồng, trong đó: vốn gốc là 3.000.000 đồng, tiền lãi tạm tính đến ngày 30/10/2020 là 860.000 đồng. Ngân hàng đã phối hợp với chính quyền địa phương, Hội đoàn thể vận động gia đình thực hiện nghĩa vụ để thu hồi nợ về cho Nhà nước nhưng không có kết quả.

Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng C cho rằng ông V đã trả được số tiền lãi là 860.000 đồng, nay Ngân hàng yêu cầu Toà án giải quyết: Buộc ông Nguyễn Văn V và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Phan Thị Lý B có trách nhiệm hoàn trả tổng số tiền là 3.860.000 đồng, trong đó: vốn gốc là 3.000.000 đồng, tiền lãi tính đến ngày 19/02/2021 là 2.000 đồng và tiền lãi phát sinh cho đến khi thi hành xong khoản nợ theo mức lãi suất của hợp đồng.

Đối với bị đơn ông Nguyễn Văn V và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phan Thị Lý B: Từ khi Tòa án thụ lý giải quyết cho đến nay, ông V và bà B không tham gia tố tụng nên Tòa án không thể thu thập được lời khai và ý kiến của ông V và bà B.

Tại phiên tòa, nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt nên các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Thẩm phán tiến hành các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 như thẩm quyền thụ lý vụ án, xác định tư cách đương sự, quan hệ tranh chấp, thu thập chứng cứ. Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định pháp luật. Đối với bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định pháp luật.

Về nội dung giải quyết vụ án:

Theo sổ vay vốn, giấy đề nghị kiêm phương án sử dụng vốn vay và sổ lưu tờ rơi theo dõi cho vay - thu nợ - dư nợ giữa các bên như nguyên đơn trình bày trong đơn khởi kiện và cung cấp cho Tòa án là phù hợp, đúng pháp luật. Bị đơn ông Nguyễn Văn V và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phan Thị Lý B đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng không có ý kiến hay phản đối gì về yêu cầu của nguyên đơn nên đây được xem là tình tiết không phải chứng minh theo Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự. Quá trình thực hiện hợp đồng, gia đình ông V và bà B đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán cả vốn gốc và lãi theo thỏa thuận. Do đó, yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng là có căn cứ chấp nhận.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 92, khoản 1 Điều 147, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 476 Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 117, 463, 466, 467 Bộ luật dân sự 2015; Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Điều 6, Điều 7, khoản 1 Điều 8, Điều 12, Điều 13 của Nghị quyết 01/2019/NQ-2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Bị đơn phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Xét thấy tại phiên tòa bị đơn ông Nguyễn Văn V và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phan Thị Lý B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

[2] Về nội dung vụ án:

Vào ngày 17/8/2015, Ngân hàng C phê duyệt cho hộ ông Nguyễn Văn V, vay số tiền 3.000.000 đồng, lãi suất 0,55%/tháng, thời hạn cho vay 60 tháng, kỳ hạn trả nợ 12 tháng/lần, hạn trả cuối cùng là ngày 17/8/2020, của chương trình cho vay: Hộ nghèo, mục đích sử dụng để cải tạo vườn cam. Hợp đồng thể hiện ông V và bà B đều có ký tên. Quá trình thực hiện hợp đồng, Ngân hàng cho rằng hộ ông Nguyễn Văn V đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán đến nay hộ ông Nguyễn Văn V chưa trả khoản nợ gốc nào và đã trả lãi 170.000 đồng. Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng C cho rằng ông V đã trả thêm tiền lãi là 860.000 đồng. Tổng cộng số tiền còn nợ là 3.002.000 đồng, trong đó: vốn gốc là 3.000.000 đồng, tiền lãi tính đến ngày 19/02/2021 là 2.000 đồng. Về phía ông V và bà B: Mặc dù Tòa án đã mời nhiều lần nhưng ông bà không tham gia tố tụng, không có ý kiến hay phản đối gì về yêu cầu của nguyên đơn nên đây được xem là tình tiết không phải chứng minh theo Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự.

Hội đồng xét xử cho rằng Hợp đồng vay tài sản giữa NHCS xã hội Việt Nam và ông V được lập trên cơ sở tự nguyện của các bên, không trái đạo đức xã hội, mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật, khi giao kết hợp đồng phía ông V và bà B là những người có đủ năng lực hành vi dân sự nên giao dịch trên giữa bà Ngân hàng CSXH Việt Nam và ông V, bà B là hợp pháp. Mặc dù bà B chỉ ký hợp đồng với tư cách là người thừa kế nhưng mục đích của hợp đồng là cải tạo vườn cam, phục vụ cho sự phát triển kinh tế chung của gia đình nên bà B là vợ phải có nghĩa vụ liên đới với ông V chịu trách nhiệm về khoản nợ trên. Từ phân tích trên, Hội đồng xét xử cần áp dụng Điều 476 Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 117, 463, 466 Bộ luật dân sự 2015; Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Điều 27, 37 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 6, Điều 7, khoản 1 Điều 8, Điều 12, Điều 13 của Nghị quyết 01/2019/NQ-2019/NQ- HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng CSXH Việt Nam, buộc vợ chồng ông V, bà B có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng CSXH Việt Nam số tiền vốn và lãi đã vay là 3.002.000 đồng (vốn gốc 3.000.000 đồng, tiền lãi là 2.000 đồng) và tiền lãi phát sinh cho đến khi thi hành xong khoản nợ theo mức lãi suất của hợp đồng.

[3] Xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát: Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách như đã phân tích trên.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn được Toà án chấp nhận, nên bị đơn ông Nguyễn Văn V và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phan Thị Lý B phải liên đới chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định là 300.000 đồng.

[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo Bản án theo quy định tại Điều 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 92, khoản 3 Điều 144, Điều 147, Điều 227, 228, Điều 271, Điều 273, Điều 278, Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 476 Bộ luật dân sự năm 2005;

- Căn cứ Điều 117, 463, 466 Bộ luật dân sự 2015;

- Căn cứ Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010;

- Căn cứ Điều 27, 37 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Điều 26 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014);

- Căn cứ Điều 6, Điều 7, khoản 1 Điều 8, Điều 12, Điều 13 của Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

TUYÊN XỬ:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Buộc bị đơn ông Nguyễn Văn V và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phan Thị Lý B có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng C số tiền vốn và lãi đã vay tính đến ngày 19/02/2021 là 3.002.000 đồng (trong đó, vốn gốc là 3.000.000 đồng, tiền lãi là 2.000 đồng) Kể từ ngày 20/02/2021, ông Nguyễn Văn V và bà Phan Thị Lý B còn phải có nghĩa vụ liên đới tiếp tục chịu khoản tiền lãi đối với số tiền nợ gốc (vốn vay) chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong Sổ vay vốn số 6227041548 ngày 17/8/2015 (giải ngân ngày 17/8/2015) cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.

2. Án phí dân sự sơ thẩm:

Bị đơn ông Nguyễn Văn V và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phan Thị Lý B liên đới chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá là 300.000 đồng.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, đối với người vắng mặt được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật, để Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xử phúc thẩm.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a ,7b và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

125
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 28/2021/DS-ST ngày 19/02/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:28/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kế Sách - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 19/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;