Bản án 28/2021/DS-ST ngày 02/03/2021 về tranh chấp hợp đồng giao khoán

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 28/2021/DS-ST NGÀY 02/03/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GIAO KHOÁN

Ngày 02 tháng 3 năm 2021, tại hội trường Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 251/2020/TLST-DS ngày 08/7/2020; số 253, 259, 260/2020/TLST-DS ngày 10/7/2020 và Quyết định nhập vụ án số 09/2021/QĐST-DS ngày 11 tháng 01 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng giao khoán” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2021/QĐXXST-DS ngày 01 tháng 02 năm 2021, giữa:

- Nguyên đơn:

+ Bà Hồ Thị H, sinh năm 1987; Nơi cư trú: Thôn L, xã HĐ, huyện K, tỉnh Đắk Lắk (Có mặt).

+ Bà Hoàng Thị B, sinh năm 1964; Nơi cư trú: Thôn L, xã HĐ, huyện K, tỉnh Đắk Lắk (Có mặt).

+ Ông Nguyễn Hữu H1, sinh năm 1967; Nơi cư trú: Thôn L, xã HĐ, huyện K, tỉnh Đắk Lắk (Có mặt).

+ Ông Nguyễn Đình B1, sinh năm 1966; Nơi cư trú: Thôn L, xã HĐ, huyện K, tỉnh Đắk Lắk (Có mặt).

- Bị đơn: Công ty Cổ phần cà phê TL; địa chỉ: Km 17, Quốc lộ 26, xã HĐ, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; Người đại diện theo pháp luật: Ông Đỗ Hoàng P, chức vụ: Chủ tịch Hội đồng thành viên.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Phạm Đình B2, sinh năm 1957; địa chỉ: đường D, Tp. B, tỉnh Đắk Lắk (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa các nguyên đơn bà Hồ Thị H, bà Hoàng Thị B, ông Nguyễn Hữu H1, ông Nguyễn Đình B1 trình bày:

Ngày 25/8/2011, bà H, bà B, ông H1, ông B1 có đơn xin hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên gửi Công ty TNHH một thành viên cà phê TL (Nay là Công ty Cổ phần cà phê TL).

Ngày 27/8/2011 giữa bà H và Công ty đã ký Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên số 1441/2011/HĐ-GK với nhau, theo hợp đồng thì: Bà H đã nhận khoán chăm sóc vườn cây cà phê Vối trồng năm 1990 của Công ty có diện tích 10.060m2, diện tích bờ lô 1461m2. Địa điểm đất giao khoán thuộc đội 30/4, thửa đất số 17, tờ bản đồ số 05, địa chỉ thửa đất: thuộc xã HĐ, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Nguyên giá vườn cây khi nhận khoán có giá là: 45.766.815 đồng; Giá trị vườn cây còn lại: 25.722.748 đồng. Phần giá trị vườn cây trên đất Công ty góp 51%, chủ hộ góp 49%.Thời hạn giao khoán là 06 năm, sau đó gia hạn thêm 06 năm.

Ngày 27/8/2011 giữa bà B và Công ty đã ký Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên số 1471/2011/HĐ-GK với nhau, theo hợp đồng trên thì: Bà B đã nhận khoán chăm sóc vườn cây cà phê Vối trồng năm 1994 của Công ty có diện tích 11.530m2, diện tích bờ lô 1674m2. Địa điểm đất giao khoán thuộc đội 30/4, thửa đất số 13, tờ bản đồ số 03, địa chỉ thửa đất: thuộc xã HĐ, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Nguyên giá vườn cây khi nhận khoán có giá là: 58.572.508 đồng; Giá trị vườn cây còn lại: 36.968.905 đồng. Phần giá trị vườn cây trên đất Công ty góp 51%, chủ hộ góp 49%. Thời hạn giao khoán là 10 năm.

Ngày 27/8/2011 giữa ông H1 và Công ty đã ký Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên số 1424/2011/HĐ-GK với nhau, theo hợp đồng thì: Ông H1 đã nhận khoán chăm sóc vườn cây cà phê Vối trồng năm 1990 của Công ty có diện tích 10.010m2, diện tích bờ lô 1453m2. Địa điểm đất giao khoán thuộc đội 30/4, thửa đất số 12, tờ bản đồ số 05, địa chỉ thửa đất: thuộc xã HĐ, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Nguyên giá vườn cây khi nhận khoán có giá là: 45.539.345 đồng; Giá trị vườn cây còn lại: 25.501.556 đồng. Phần giá trị vườn cây trên đất Công ty góp 51%, chủ hộ góp 49%. Thời hạn giao khoán là 06 năm, sau đó gia hạn thêm 06 năm.

Ngày 27/8/2011 giữa ông B1 và Công ty đã ký Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên số 1422/2011/HĐ-GK với nhau. Việc ký kết hợp đồng là hoàn toàn tự nguyện xong hợp đồng là do phía Công ty soạn sẵn mẫu đúng theo quy định thì Công ty phải cho người dân (người nhận khoán) được đọc các nội dung trong hợp đồng, tuy nhiên người dân không được đọc, khi Công ty đưa cho dân chỉ nói có ký hay không? Không ký thì để người khác ký vì sợ không có đất canh tác sản xuất nên ông B1 đã ký mà chưa hề được đọc nội dung của hợp đồng, ông B1 là nông dân vốn am hiểu pháp luật kém, Công ty còn không giải thích rõ hay thông qua nội dung để ông B1 được biết. Mặc dù không ép nhưng ông B1 cảm thấy mình đã bị Công ty lừa dối khi bảo ký hợp đồng bất lợi cho ông B1. Cụ thể là trong phương án trình lên UBND tỉnh năm 2011, Công ty có trình bày như sau:

“Thời tiết, khí hậu diễn biến phức tạp ảnh hưởng rất lớn đến sự ra hoa kết quả của cây cà phê, mặt khác sâu bệnh ngày càng phá hoại nặng nề. Lợi nhuận hàng năm của Công ty hoàn toàn phụ thuộc vào thị trường thế giới, giá cà phê trong những năm gần đây lên xuống thất thường vì vậy công việc kinh doanh của công ty không được ổn định, giá bán sản phẩm chỉ bằng một nửa giá thành sản xuất dẫn đến Công ty thua lỗ. Phần chi phí đầu vào mỗi năm một tăng cao, đặc biệt là trong thời điểm hiện nay các loại chi phí vật tư phân bón, nhiên liệu, chi phí tiền lương, các khoản đóng BHXH, BHYT, BHNT, kinh phí công đoàn cũng sẽ tăng theo lộ trình điều chỉnh lương của nhà nước, từ đó giá thành sản xuất của công ty cũng tăng theo.” Công ty đã biết như vậy mà vẫn phiên ngang phương án 49 – 51 sang khoán gọn cho người lao động, đẩy cuộc sống của người lao động đến khó khăn. Việc làm này của Công ty trái với Nghị định 135, Thông tư 102 và Bộ luật dân sự.

Theo hợp đồng số 1422/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011 thì: Ông B1 đã nhận khoán chăm sóc vườn cây cà phê Vối trồng năm 1990 của Công ty có diện tích 10.190m2, diện tích bờ lô 1480m2. Địa điểm đất giao khoán thuộc đội 30/4, thửa đất số 13, tờ bản đồ số 05, địa chỉ thửa đất: thuộc xã HĐ, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Nguyên giá vườn cây khi nhận khoán có giá là: 46.358.235 đồng; Giá trị vườn cây còn lại: 25.960.125 đồng. Phần giá trị vườn cây trên đất Công ty góp 51%, chủ hộ góp 49%. Thời hạn giao khoán là 06 năm, sau đó gia hạn thêm 06 năm.

Kể từ khi nhận khoán vườn cây cho đến niên vụ cà phê 2017-2018, bà H, bà B, ông H1, ông B1 đã thực hiện nghĩa vụ chăm sóc vườn cây cũng như thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao nộp sản phẩm theo hợp đồng. Tuy nhiên, đến năm 2018 thì các ông bà phát hiện Công ty có sự gian lận. Cụ thể: Phát hiện Công ty đã gian lận chi phí nhân công cho diện tích 01ha trong 07 năm (từ năm 2011-2017) là 86.954.753,2đồng (Bình quân một năm Công ty gian lận là 12.422.107,6 đồng/năm); Công ty đã gian lận sản phẩm cà phê quả tươi làm thành cà phê quy nhân cho diện tích 01ha trong 07 năm (từ năm 2011-2017) là 3.038kg cà phê quả tươi, giá tiền: 8.000 đồng/kg, thành tiền là 24.304.000 đồng (Bình quân một năm là 434kg, giá tiền 8.000 đồng/kg, thành tiền là 3.472.000 đồng/năm); Công ty đã gian lận tiền thủy lợi phí về việc tưới giếng cho diện tích 01ha trong 08 năm (từ năm 2011-2018) mà Công ty không trả phần 51% lẽ ra Công ty phải chịu với số tiền là 7.344.000 đồng (Bình quân một năm là 918.000 đồng/năm). Mặc dù bà H nhận khoán 10.060m2, bà B nhận khoán 11.530m2, ông H1 nhận khoán 10.010m2, ông B1 nhận khoán 10.190m2 nhưng các ông bà đều làm tròn thành 10.000m2 (1ha).

Theo đơn khởi kiện thì bà H, bà B, ông H1, ông B1 yêu cầu Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả tổng số tiền là 118.602.753,2 đồng/1người. Tuy nhiên, tại phiên tòa sơ thẩm bà H, bà B, ông H1, ông B1 đều xin rút một phần nội dung yêu cầu khởi kiện về việc buộc Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả lại chi phí nhân công cho diện tích 01ha (từ năm 2011-2017) số tiền 86.954.753,2đồng, cà phê tươi quy nhân cho diện tích 01ha (từ năm 2011-2017) số tiền 24.304.000đồng; tiền thủy lợi phí về việc tưới giếng nước cho diện tích 01ha (năm 2017, 2018) là 1.836.000 đồng. Tổng cộng là 113.094.753,2 đồng/1người.

Đối với tiền thủy lợi phí về việc tưới giếng nước cho diện tích 1ha đất giao khoán (từ năm 2011-2016) là 5.508.000 đồng/1người thì bà H, bà B, ông H1, ông B1 đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết buộc Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả lại. Ngoài ra, không có yêu cầu gì thêm.

* Đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Phạm Đình B2 trình bày:

Công ty Cổ phần cà phê TL (Trước đây là Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cà phê TL) thừa nhận là giữa Công ty với bà Hồ Thị H, bà Hoàng Thị B, ông Nguyễn Hữu H1 và ông Nguyễn Đình B1 có ký hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê với nhau, cụ thể: bà Hồ Thị H với Công ty có ký kết hợp đồng số 1441/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011, bà Hoàng Thị B với Công ty có ký kết hợp đồng số 1471/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011, ông Nguyễn Hữu H1 với Công ty có ký kết hợp đồng số 1424/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011, ông Nguyễn Đình B1 với Công ty có ký kết hợp đồng số 1422/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011. Kể từ khi nhận khoán vườn cây cho đến niên vụ cà phê 2017-2018, bà H, bà B, ông H1, ông B1 đã thực hiện nghĩa vụ chăm sóc vườn cây cũng như thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao nộp sản phẩm theo hợp đồng. Tuy nhiên, đến niên vụ thu hoạch cà phê 2018-2019 và 2019-2020 bà H, bà B, ông H1, ông B1 đã không thực hiện nghĩa vụ giao nộp sản phẩm cà phê quả tươi cho Công ty theo đúng cam kết trong hợp đồng, là vi phạm hợp đồng nhưng Công ty chưa tiến hành khởi kiện.

Tại phiên tòa sơ thẩm, các nguyên đơn rút một phần nội dung yêu cầu khởi kiện thì Công ty Cổ phần cà phê TL không có ý kiến gì. Còn đối với yêu cầu khởi kiện của bà H, bà B, ông H1, ông B1 về việc: Buộc Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả lại tiền thủy lợi phí về việc tưới giếng nước cho diện tích 01ha (từ năm 2011-2016) là 5.508.000 đồng/1 người, Công ty Cổ phần cà phê TL không chấp nhận, vì: Công đoạn tưới nước là một công đoạn chủ yếu của việc sản xuất kinh doanh cây cà phê, do đó, về công lao động đã được tính vào chi phí sản xuất trên 01ha cà phê. Tại trang 9, 10 của Phương án khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên được Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt đã ghi rõ các khoản mục trong cấu thành giá thành sản xuất “Tiền khấu hao hồ đập kênh mương là 500.000 đồng/ha/năm, trong đó phần 51% là 255.000 đồng/ha/năm” vào giá thành (Khấu trừ ăn chia sản phẩm). Đồng thời, tại mục 1 Điều 1 của hợp đồng được ký kết giữa các nguyên đơn với Công ty thì “Bên A khoán gọn vườn cây cà phê cho bên B trực tiếp đầu tư, chăm sóc, bảo vệ thu hoạch và giao nộp sản phẩm cà phê...”. Như vậy, mặc dù trong hợp đồng giao khoán hai bên chỉ đề cập đối với hệ thống hồ đập, kênh mương không đề cập đến việc tưới giếng, nhưng thực chất Công ty đã trả 255.000 đồng/ha/năm là hoàn toàn công bằng giữa người tưới mương và tưới giếng. Mặt khác, theo thông báo số 61/UB-VPUBND ngày 08/4/2019 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk có nêu: “…việc đào giếng tưới và sử dụng giếng tưới cho vườn cây nhận khoán là của người dân, nhà nước không chi trả”. Do đó, Công ty không chấp nhận yêu cầu khởi kiện trên của các nguyên đơn bà H, bà B, ông H1, ông B1.

Phần tranh luận tại phiên tòa:

Nguyên đơn bà Hồ Thị H, bà Hoàng Thị B, ông Nguyễn Hữu H1, ông Nguyễn Đình B1 tranh luận: Giữ nguyên yêu cầu về việc buộc Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả lại cho nguyên đơn số tiền thủy lợi phí về việc tưới giếng nước cho diện tích 01ha đất giao khoán (từ năm 2011-2016), vì: Dựa vào thực tế, vườn cây không thể tưới bằng kênh mương, diện tích vườn cây nhận khoán của các hộ dân cách xa hệ thống kênh mương của Công ty, khi không có nước tưới thì sản lượng cà phê giảm sút.

Đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Phạm Đình B2 tranh luận: Bị đơn Công ty Cổ phần cà phê TL không đồng ý đối với yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn bà H, bà B, ông H1, ông B1 đề nghị Tòa án xem xét không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk phát biểu quan điểm:

- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 5, khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm c khoản 1 Điều 217, Điều 218, Điều 219, Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015; điểm c khoản 1 Điều 688 của Bộ luật dân sự năm 2015; Các Điều 388, 390, 392, 412, 414, 501, 502, 503 của Bộ luật dân sự năm 2005; Các Điều 7, 8, 9, 10, 12 Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 08/11/2005 của Chính phủ; Thông tư số 102/2006/TT- BNN ngày 13 tháng 11 năm 2006 của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn; Luật đất đai năm 2003.

- Bác một phần yêu cầu khởi kiện của bà Hồ Thị H, bà Hoàng Thị B, ông Nguyễn Hữu H1, ông Nguyễn Đình B1 về việc: Buộc Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả lại tiền thủy lợi phí về việc tưới giếng nước cho diện tích 01ha (từ năm 2011-2016) là 5.508.000 đồng/1người.

- Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của bà Hồ Thị H, bà Hoàng Thị B, ông Nguyễn Hữu H1, ông Nguyễn Đình B1 về việc: Buộc Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả số tiền 113.094.753,2 đồng/1người.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

- Về quan hệ tranh chấp: Căn cứ vào đơn khởi kiện của nguyên đơn bà Hồ Thị H, bà Hoàng Thị B, ông Nguyễn Hữu H1, ông Nguyễn Đình B1 thì Hội đồng xét xử xác định đây là “Tranh chấp hợp đồng giao khoán” được quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn Công ty Cổ phần cà phê TL có địa chỉ tại xã HĐ, huyện K, tỉnh Đắk Lắk nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Theo các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn, bị đơn cung cấp và được hai bên thừa nhận, thì thấy: Giữa bà Hồ Thị H, bà Hoàng Thị B, ông Nguyễn Hữu H1, ông Nguyễn Đình B1 với Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cà phê Thắng Lợi (Nay là Công ty Cổ phần cà phê TL) có ký kết hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê với nhau, cụ thể: Bà Hồ Thị H với Công ty có ký kết hợp đồng số 1441/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011, bà Hoàng Thị B với Công ty có ký kết hợp đồng số 1471/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011, ông Nguyễn Hữu H1 với Công ty có ký kết hợp đồng số 1424/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011, ông Nguyễn Đình B1 với Công ty có ký kết hợp đồng số 1422/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011.

Qua xem xét các Hợp đồng trên thì thấy: Đây là hợp đồng song vụ có thời hạn, khi thực hiện việc giao kết hợp đồng các bên đều hoàn toàn tự nguyện và có đầy đủ năng lực trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật, về nội dung cũng như hình thức của hợp đồng hai bên đã ký kết không vi phạm pháp luật nên có giá trị pháp lý, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Trong quá trình thực hiện hợp đồng giao khoán thì bà H, bà B, ông H1, ông B1 đều đã thực hiện nghĩa vụ chăm sóc vườn cây cũng như thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao nộp sản phẩm theo hợp đồng kể từ ngày ký hợp đồng cho đến hết niên vụ 2017-2018 và các bên không có tranh chấp gì. Do đó, xác định đây là chứng cứ không cần chứng minh theo quy định tại Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Hồ Thị H, bà Hoàng Thị B, ông Nguyễn Hữu H1, ông Nguyễn Đình B1 về việc: Buộc Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả lại cho các ông bà tiền thủy lợi phí về việc tưới giếng nước cho diện tích 01ha đất giao khoán (từ năm 2011-2016) là 5.508.000 đồng/1 người. Hội đồng xét xử thấy: Tại Điều 1, 2 của hợp đồng khoán gọn có nêu: “Bên A khoán gọn vườn cây cà phê cho bên B trực tiếp đầu tư, chăm sóc, bảo vệ, thu hoạch và giao nộp sản phẩm cà phê”; “Khi vào vụ tưới nước cho cà phê, Công ty mở nước cho bên B tưới với diện tích tưới mương. Diện tích tưới mương Công ty sẽ thu tiền khấu hao hồ đập kênh mương theo đơn giá quy định tại hội nghị người lao động hằng năm”. Tại trang 9, 10 Bảng phương án khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt đã ghi rõ, trường hợp gia đình tưới nước từ kênh mương của Công ty thì phải trả lại tiền khấu hao kênh mương, thủy lợi cho Công ty phần 49% là 245.000đồng/ha/năm, trong phần tính toán chi phí đầu tư để khấu trừ Công ty đã trả 255.000đồng/ha/năm (Khấu hao kênh mương phần 51%) cho người nhận khoán. Như vậy, căn cứ vào bảng phương án khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk phê duyệt và các hợp đồng mà bà H, bà B, ông H1, ông B1 đã ký với Công ty thì, khi ký kết hợp đồng hai bên không đề cập đến thủy lợi phí là thuê giếng tưới, các bên chỉ đề cập tới khấu hao hồ đập, kênh mương. Đồng thời, tại Thông báo số 61/UB- VPUBND ngày 08/4/2019 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk có nêu: “…việc đào giếng tưới và sử dụng giếng tưới cho vườn cây nhận khoán là của người dân, nhà nước không chi trả”. Mặt khác, tại thời điểm ký kết và trong quá trình thực hiện hợp đồng thì bà H, bà B, ông H1, ông B1 không có ý kiến gì với Công ty về việc tưới giếng đối với vườn cây nhận khoán. Do đó, căn cứ theo quy định tại các Điều 388, 390, 392, 412, 414, 501, 502, 503 và 506 của Bộ luật dân sự năm 2005 và các Điều 7, 8, 9, 10, 12 của Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 08/11/2005 của Chính phủ; Luật đất đai năm 2003; không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn về việc buộc Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả lại tiền thủy lợi phí về việc tưới giếng nước cho diện tích 01ha đất giao khoán (từ năm 2011-2016).

Tại phiên tòa sơ thẩm các nguyên đơn bà Hồ Thị H, bà Hoàng Thị B, ông Nguyễn Hữu H1, ông Nguyễn Đình B1 xin rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc buộc Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả lại chi phí nhân công cho diện tích 01ha (từ năm 2011-2017) số tiền 86.954.753,2đồng, cà phê tươi quy nhân cho diện tích 01ha (từ năm 2011-2017) số tiền 24.304.000đồng; tiền thủy lợi phí về việc tưới giếng nước cho diện tích 01ha (năm 2017, 2018) là 1.836.000 đồng. Tổng cộng là 113.094.753,2 đồng/1 người. Xét thấy, việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn là hoàn toàn tự nguyện, đúng pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217, Điều 218, Điều 219, khoản 2 Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự, đình chỉ xét xử đối với một phần yêu cầu khởi kiện của bà H, bà B, ông H1 và ông B1.

Bà Hồ Thị H, bà Hoàng Thị B, ông Nguyễn Hữu H1, ông Nguyễn Đình B1 được quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật.

[3] Về án phí:

- Do yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn bà Hồ Thị H, bà Hoàng Thị B, ông Nguyễn Hữu H1, ông Nguyễn Đình B1 đối với là 5.508.000 đồng/ 1 người không được chấp nhận nên mỗi người phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

[4] Xét quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk tại phiên tòa là có căn cứ và đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 5, khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm c khoản 1 Điều 217, Điều 218, Điều 219, khoản 2 Điều 244, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 688 của Bộ luật dân sự năm 2015; Các Điều 388, 390, 392, 412, 414, 501, 502, 503, 506 của Bộ luật dân sự năm 2005; Các Điều 7, 8, 9, 10, 12 của Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 08 tháng 11 năm 2005 của Chính phủ; Thông tư số 102/2006/TT-BNN ngày 13 tháng 11 năm 2006 của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn; Luật đất đai năm 2003.

- Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14.

Tuyên xử:

1. Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Hồ Thị H:

- Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Hồ Thị H về việc: Buộc Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả lại tiền thủy lợi phí về việc tưới giếng nước cho diện tích 01ha đất giao khoán (từ năm 2011-2016) là 5.508.000 đồng (Năm triệu, năm trăm lẻ tám nghìn đồng).

- Đình chỉ xét xử đối với một phần yêu cầu khởi kiện của bà Hồ Thị H về việc: Buộc Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả lại chi phí nhân công cho diện tích 01ha (từ năm 2011-2017) số tiền 86.954.753,2đồng, cà phê tươi quy nhân cho diện tích 01ha (từ năm 2011-2017) số tiền 24.304.000đồng; tiền thủy lợi phí về việc tưới giếng nước cho diện tích 01ha (năm 2017, 2018) là 1.836.000 đồng. Tổng cộng là 113.094.753,2 đồng (Một trăm mười ba triệu, không trăm chín mươi bốn nghìn, bảy trăm năm mươi ba phẩy hai đồng).

Bà Hồ Thị H được quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật.

2. Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Hoàng Thị B:

- Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Hoàng Thị B về việc: Buộc Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả lại tiền thủy lợi phí về việc tưới giếng nước cho diện tích 01ha đất giao khoán (từ năm 2011-2016) là 5.508.000 đồng (Năm triệu, năm trăm lẻ tám nghìn đồng).

- Đình chỉ xét xử đối với một phần yêu cầu khởi kiện của bà Hoàng Thị B về việc: Buộc Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả lại chi phí nhân công cho diện tích 01ha (từ năm 2011-2017) số tiền 86.954.753,2đồng, cà phê tươi quy nhân cho diện tích 01ha (từ năm 2011-2017) số tiền 24.304.000đồng; tiền thủy lợi phí về việc tưới giếng nước cho diện tích 01ha (năm 2017, 2018) là 1.836.000 đồng. Tổng cộng là 113.094.753,2 đồng (Một trăm mười ba triệu, không trăm chín mươi bốn nghìn, bảy trăm năm mươi ba phẩy hai đồng).

Bà Hoàng Thị B được quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật.

3. Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Hữu H1:

- Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hữu H1 về việc: Buộc Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả lại tiền thủy lợi phí về việc tưới giếng nước cho diện tích 01ha đất giao khoán (từ năm 2011-2016) là 5.508.000 đồng (Năm triệu, năm trăm lẻ tám nghìn đồng).

- Đình chỉ xét xử đối với một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hữu H1 về việc: Buộc Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả lại chi phí nhân công cho diện tích 01ha (từ năm 2011-2017) số tiền 86.954.753,2đồng, cà phê tươi quy nhân cho diện tích 01ha (từ năm 2011-2017) số tiền 24.304.000đồng; tiền thủy lợi phí về việc tưới giếng nước cho diện tích 01ha (năm 2017, 2018) là 1.836.000 đồng. Tổng cộng là 113.094.753,2 đồng (Một trăm mười ba triệu, không trăm chín mươi bốn nghìn, bảy trăm năm mươi ba phẩy hai đồng).

Ông Nguyễn Hữu H1 được quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật.

4. Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Đình B1:

- Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Đình B1 về việc: Buộc Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả lại tiền thủy lợi phí về việc tưới giếng nước cho diện tích 01ha đất giao khoán (từ năm 2011-2016) là 5.508.000 đồng (Năm triệu, năm trăm lẻ tám nghìn đồng).

- Đình chỉ xét xử đối với một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Đình B1 về việc: Buộc Công ty Cổ phần cà phê TL phải trả lại chi phí nhân công cho diện tích 01ha (từ năm 2011-2017) số tiền 86.954.753,2đồng, cà phê tươi quy nhân cho diện tích 01ha (từ năm 2011-2017) số tiền 24.304.000đồng; tiền thủy lợi phí về việc tưới giếng nước cho diện tích 01ha (năm 2017, 2018) là 1.836.000 đồng. Tổng cộng là 113.094.753,2 đồng (Một trăm mười ba triệu, không trăm chín mươi bốn nghìn, bảy trăm năm mươi ba phẩy hai đồng).

Ông Nguyễn Đình B1 được quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật.

4. Về án phí:

- Nguyên đơn bà Hồ Thị H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào 2.965.000 đồng (Hai triệu, chín trăm sáu mươi lăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2019/0014059 ngày 08/7/2020 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Krông Pắc. Bà Hồ Thị H được nhận lại số tiền 2.665.000 đồng (Hai triệu, sáu trăm sáu mươi lăm nghìn đồng).

- Nguyên đơn bà Hoàng Thị B phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào 2.965.000 đồng (Hai triệu, chín trăm sáu mươi lăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2019/0014056 ngày 08/7/2020 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Krông Pắc. Bà Hoàng Thị B được nhận lại số tiền 2.665.000 đồng (Hai triệu, sáu trăm sáu mươi lăm nghìn đồng).

- Nguyên đơn ông Nguyễn Hữu H1 phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào 2.965.000 đồng (Hai triệu, chín trăm sáu mươi lăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2019/0014067 ngày 10/7/2020 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Krông Pắc. Ông Nguyễn Hữu H1 được nhận lại số tiền 2.665.000 đồng (Hai triệu, sáu trăm sáu mươi lăm nghìn đồng).

- Nguyên đơn ông Nguyễn Đình B1 phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào 2.965.000 đồng (Hai triệu, chín trăm sáu mươi lăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2019/0014065 ngày 10/7/2020 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Krông Pắc. Ông Nguyễn Đình B1 được nhận lại số tiền 2.665.000 đồng (Hai triệu, sáu trăm sáu mươi lăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

296
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 28/2021/DS-ST ngày 02/03/2021 về tranh chấp hợp đồng giao khoán

Số hiệu:28/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Pắc - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 02/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;