TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ, TỈNH QUẢNG TRỊ
BẢN ÁN 28/2020/HSST NGÀY 15/05/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 15/5/2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị (Địa chỉ: Số 45 Lê Lợi, thành phố Đông Hà), xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 23/2020/HSST ngày 01/4/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2020/QĐXXST-HS ngày 29/4/2020, đối với bị cáo, Trần Văn T (Tên gọi khác: Cu Gái), sinh ngày 15/10/1994, tại: Quảng Trị; Nơi cư trú: Khu phố T, Phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị; Nghề nghiệp: Thợ mộc; Trình độ văn hóa: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: (Không xác định) và bà: Trần Thị Kim L, sinh năm: 1964, chưa có vợ, con.
Tiền án: Không;
Tiền sự: 01, cụ thể: Ngày 18/4/2019, Trần Văn T bị Công an thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị, xử phạt hành chính 1.500.000 đồng, về hành vi “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chưa thi hành.
Bị cáo bị tạm giữ kể từ ngày 17/12/2019 sau đó chuyển tạm giam cho đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Trị, có mặt tại phiên tòa.
- Người làm chứng: Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1995; Trú tại: Khu phố P, phường ĐL, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trần Văn T sống với mẹ là bà Trần Thị Kim L, tại địa chỉ Khu phố T, Phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị nhưng làm việc (nghề thợ mộc) tại Khu phố H, Phường H, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị (Cách nơi ở khoảng 03 km). Với mục đích: Tránh sự phát hiện của cơ chức năng nên T thuê phòng trọ gần nơi làm việc nhằm sử dụng và bán ma túy. Khoảng 13 giờ ngày 12/12/2019, T đến khu vực phía sau Trung tâm Thể dục thể thao thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị gặp một nam thanh niên tên Quỳnh (không rõ lai lịch, địa chỉ) mua được 20 viên ma túy tổng hợp với giá 900.000 đồng, biết T có ma túy, Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1995; Trú tại: Khu phố P, phường ĐL, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị liên lạc qua điện thoại với T để mua ma túy, T đồng ý bán. Khoảng 14 giờ cùng ngày, tại khu vực Trường Tiểu học Phan Bội Châu, thuộc Phường 2, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị, T bán cho H 09 viên ma túy, với giá 550.000 đồng. Số ma túy còn lại, T đưa về phòng trọ của mình rồi sử dụng 01 viên, còn 10 viên T cất giấu ở bậc cầu thang lên gác lửng để nhằm bán lại cho người khác kiếm lời nhưng chưa kịp bán thì vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 17/12/2019, Công an thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị tiến hành kiểm tra hành chính phòng trọ của T, phát hiện và thu giữ 10 viên nén màu hồng, hình tròn, bề mặt mỗi viên đều có chữ WY và một số vật chứng khác.
- 09 viên ma túy T bán cho Nguyễn Ngọc H: Ngay sau khi mua được ma túy, H đưa về Phòng số 3- Nhà trọ Thảo Nguyên thuộc Khu phố 8, Phường 2, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị rồi cùng với một số đối tượng khác sử dụng hết 05 viên, 04 viên còn lại chưa kịp sử dụng thì bị Công an thành phố Đông Hà phát hiện, thu giữ.
* Kết luận giám định vật chứng:
Tại Bản kết luận giám định số 03/KLGĐ ngày 17/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị, xác định: 04 viên nén màu hồng thu giữ của Nguyễn Ngọc Hai và một số đối tượng khác là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,3844 gam.
Tại Bản kết luận giám định số 15/KLGĐ ngày 20/12/2019, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị, xác định: 10 viên nén màu hồng thu giữ của Trần Văn T là ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng 0,9692 gam.
* Cáo trạng số 27/CT-VKS-ĐH ngày 01/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị, truy tố bị cáo Trần Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
* Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên cáo trạng truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng khoản 1 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 30 đến 36 tháng tù.
- Áp dụng điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và khoản 1, điểm a , b, c khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động; Tịch thu tiêu hủy toàn bộ ma túy, bao gói sau giám định và vỏ bao thuốc lá. Truy thu khoản thu lợi bất chính từ T 550.000 đồng; Trả lại cho T 200.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Hoạt động tố tụng: Quá trình điều tra- truy tố- xét xử: Cơ quan tiến hành tố tụng- người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật tố tụng hình sự trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử; bị cáo, người làm chứng đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình. Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn T cũng như người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại gì đối với hoạt động tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng- người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử.
[2] Nội dung vụ án: Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn T khai nhận toàn bộ hành vi bán 09 viên ma túy cho Nguyễn Ngọc H và hành vi cất giấu 10 viên ma túy nhằm mục đích bán cho người khác để kiếm lời như nội dung bản Cáo trạng số 27/CT-VKS-ĐH ngày 01/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị truy tố bị cáo. Lời khai nhận tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố; đồng thời phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, đó là: Lời khai của người làm chứng, Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản thu giữ đồ vật; Kết luận giám định đối với đồ vật thu giữ và đặc biệt là giống với lời khai của người làm chứng khai tại phiên tòa. Như vậy, có đủ cơ sở xác định:
2.1- Khoảng 13 giờ ngày 12/12/2019, T đã mua được 20 viên ma túy loại Methamphetamine của một nam thanh niên, có ma túy, T đã sử dụng điện thoại liên lạc với Nguyễn Ngọc H để bán ma túy. Sau khi thống nhất số lượng, giá và địa điểm giao nhận với H. Khoảng 14 giờ cùng ngày, tại trước khu vực Trường Tiểu học Phan Bội Châu, thuộc Khu phố 2, Phường 2, thành phố Đông Hà, T đã bán cho H 09 viên ma túy. Số ma túy còn lại, T sử dụng 01 viên, còn 10 viên (Ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng 0,9692 gam) T cất giấu để nhằm bán lại cho người khác kiếm lời nhưng chưa kịp bán thì bị phát hiện, thu giữ. Việc chưa bán được là ngoài ý thức chủ quan của T.
2.2- 04 viên ma túy loại Methamphetamine, có trọng lượng 0,3844 gam, thu giữ của Nguyễn Ngọc H và một số đối tượng khác tại Phòng số 3- Nhà trọ Thảo Nguyên thuộc Khu phố 8, Phường 2, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị- Do T bán cho H (H và một số đối tượng khác sử dụng hết 05 viên, 04 viên còn lại chưa kịp sử dụng thì bị Công an thành phố Đông Hà phát hiện, thu giữ).
Từ những nhận định nêu trên, có đủ căn cứ để khẳng định: Hành vi nêu trên của Trần Văn T đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước mà còn gây mất trật tự an ninh ở địa phương nên cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo mới có tác dụng giáo dục, răn đe, phòng, ngừa và đẩy lùi loại tội phạm này hiện đang có chiều hướng gia tăng trên địa bàn thành phố Đông Hà. Tuy nhiên, khi lượng hình Hội đồng xét xử xét thấy, quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình nên phải áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và tội phạm mà T gây ra trong vụ án này. Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo có nhân thân xấu nên cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo là có căn cứ và cần thiết.
Đối với thời gian bị cáo bị tạm giữ và tạm giam được tính vào thời hạn chấp hành án.
- Hành vi cất giữ 04 viên ma túy loại Methamphetamine của Nguyễn Ngọc H và một số đối tượng khác đã được xét xử trong một vụ án khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.
- Hành vi bán ma túy cho T của nam thanh niên tên Quỳnh, Cơ quan điều tra đã tiến hành các biện pháp nghiệp vụ nhưng không xác định được nên Hội đồng xét xử không xem xét.
- Đối với khoản tiền 550.000 đồng bị cáo có được từ việc bán ma túy cho Nguyễn Ngọc H (T đã tiêu xài hết), đây khoản tiền do phạm tội mà có nên phải truy thu sung vào ngân sách nhà nước.
[3] Về vật chứng:
- Ma túy và bao gói hoàn lại sau giám định là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.
- 01 vỏ bao thuốc là hiệu WHITE HOSE vỏ màu vàng và đen, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
- Chiếc điện thoại di động NoKia thuộc quyền sở hữu của T, T đã sử dụng làm phương tiện phạm tội nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.
- 200.000 đồng thu giữ của T không liên quan đến vụ án nên cần trả lại cho T nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Trần Văn T (Cu Gái), phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.
1. Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng khoản 1 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt, Trần Văn T 36 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ sau đó chuyển tạm giam là ngày 17/12/2019.
2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Khoản 1, điểm a , b, c khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, xử:
- Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động màu đen hiệu NoKia có số Imei 1: 357693102411916, Imei 2: 357693102911915 và số thuê bao 0899255234.
- Tịch thu tiêu hủy: Toàn bộ ma túy và bao gói hoàn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì có ký kiệu PS3A 102832, có hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Quảng Trị và 01 vỏ bao thuốc là hiệu WHITE HOSE vỏ màu vàng và đen.
- Trả lại cho Trần Văn T 200.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Vật chứng hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 02 tháng 4 năm 2020, giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đông Hà với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà.
- Buộc bị cáo Trần Văn T phải nộp lại số tiền 550.000 đồng để nộp ngân sách Nhà nước
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Trần Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 28/2020/HSST ngày 15/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 28/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Đông Hà - Quảng Trị |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/05/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về