Bản án 28/2020/HS-ST ngày 07/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 28/2020/HS-ST NGÀY 07/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận S xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 25/2020/HS-ST ngày 26 tháng 02 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2020/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

LÊ NGUYỄN T, (tên gọi khác: Không); sinh ngày: 25/8/1997, tại thành phố Đà Nẵng; nơi cư trú: Tổ 83, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng; nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ học vấn: Không; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn B và bà Lê Thị Bích T (Hiện đã bỏ đi nơi khác); gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình.

- Tiền án, tiền sự: Chưa Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 23/11/2019. Có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:Võ Thị Thanh M, sinh năm 1977; trú tại: Thôn M, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Q. Vắng mặt.

- Người chứng kiến: Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1966; trú tại: Tổ 23, phường N, quận S, thành phố Đà Năng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào 20 giờ ngày 23/11/2019, tại trước số nhà 81 đường Vân Đ thuộc phường N, quận S, thành phố Đà Nẵng, tổ tuần tra 911, Công an thành phố Đà Nẵng tiến hành dừng xe để kiểm tra hành chính đối với Lê Nguyễn T đang điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Air Blade, BKS: 92E1 – 33895. Qua kiểm tra lực lượng công an phát hiện tại tại túi áo da phía trước, bên trái của T đang mặc có 01 gói ni lông kích thước (4x6)cm, bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng. Lực lượng Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lê Nguyễn T, thu giữ niêm phong tang vật có liên quan theo quy định pháp luật.

* Tang vật thu giữ:

- 01 gói ni lông kích thước (4x6)cm, bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng. Bì niêm phong kí hiệu: T - 01(một) điện thoại nhãn hiệu Iphone, màu xám, có số IMEI: 354420060594407;

- 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Air Blade, BKS: 92E1 – 33895, số máy: JF63E1484489, số khung: 630XFY130390.

Căn cứ Kết luận giám định số: 321/GĐ-MT ngày 27 tháng 11 năm 2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng: Mẫu tinh thể trong bì niêm phong ký hiệu T gửi giám định là ma túy loại Ketamine; khối lượng mẫu tinh thể T: 4,311 gam.

Qua điều tra xác định: Vào 19 giờ 30 phút ngày 23/11/2019, Lê Nguyễn T đã nhờ một người bạn quen biết ngoài xã hội (chưa rõ nhân thân lai lịch) liên lạc với một đối tượng tên H (chưa rõ nhân thân, lai lịch) để hỏi mua 7.000.000 đồng tiền ma túy Ketamine về nhằm mục đích sử dụng. Sau khi đối tượng trên liên lạc được với H, Hành đồng ý bán ma túy cho T và hẹn T tới một kiệt trên đường N (gần chợ M, quận S, TP. Đà Nẵng) để thực hiện việc mua bán. Sau đó, T đến địa điểm đã hẹn trước và gặp một đối tượng (chưa rõ nhân thân, lai lịch, T không xác định được có phải H hay không) để thực hiện việc mua bán trái phép chất ma túy. Sau khi mua được ma túy, T cất ma túy vào túi áo da phía trước, bên trái của T đang mặc. Đến 20 giờ cùng ngày, khi T điều khiển xe mô tô hiệu Air Blade, BKS: 92E1 – 33895 đi đến trước số nhà 81 đường V, phường N, quận S, TP. Đà Nẵng thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang cùng tang vật.

Ngoài lần mua ma túy ngày 23/11/2019, Lê Nguyễn T khai nhận trước khi bị bắt khoảng 15 ngày, T đã mua trái phép 3.000.000 đồng tiền ma túy của đối tượng H để sử dụng với cùng phương thức giao dịch như trên.

- Tại phiên tòa, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị Thanh M vắng mặt nhưng trong hồ sơ thể hiện chiếc xe mô tô hiệu Honda Air Blade, BKS: 92E1 – 33895, số máy: JF63E1484489, số khung: 630XFY130390 là của tôi, vì T là bạn của con trai tôi nên tôi đã cho T mượn để làm phương tiện đi lại. Tôi hoàn toàn không biết T dùng chiếc xe của tôi để làm phương tiện đi mua ma túy. Hiện nay tôi đã nhận lại xe và không có ý kiến gì.

- Tại phiên tòa người chứng kiến ông Nguyễn Văn C vắng mặt nhưng trong hồ sơ thể hiện: Khoảng 20 giờ ngày 23/11/2019, tôi đang đứng ở đường V thì chứng kiến lực lượng Công an đang tiến hành kiểm tra hành chính một thanh niên tên là Lê Nguyễn T, qua kiểm tra phát hiện tại túi áo da phía trước T đang mặc có 01 gói ni lông kích thước (4x6)cm, bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng và tôi nghe T khai đó là ma túy Ketamine.

Lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người chứng kiến hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo Lê Nguyễn T. Bản cáo trạng số 25/CT-VKS ngày 26/02/2020, của Viện Kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Lê Nguyễn T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Hành vi của bị cáo có đủ các yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố; đồng thời đề nghị áp dụng điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Nguyễn T từ 30 đến 36 tháng tù giam.

Về hình phạt bổ sung: Do không xác minh được tài sản riêng của bị cáo nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS và Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong số 321/GĐ - MT ngày 27/11/2019 của Phòng KTHS Công an thành phố Đà Nẵng bên trong có chứa 2,828 gam Ketamine – là khối lượng ma túy hoàn lại sau giám định và toàn bộ vỏ bao gói.

- Tiếp tục quy trữ 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu xám, số IMEI: 354420060594407 của Lê Nguyễn T để đảm bảo thi hành án.

- Đối với 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Air Blade, BKS: 92E1 – 33895, số máy: JF63E1484489, số khung: 630XFY130390 qua điều tra xác minh chủ sở hữu là Võ Thị Thanh M đã cho Lê Nguyễn T mượn để làm phương tiện đi lại. Bà M hoàn toàn không biết Lê Nguyễn T dùng chiếc xe trên làm phương tiện để đi mua ma túy. Cơ quan CSĐT Công an quận Sơn Trà đã trao trả lại chiếc xe cho bà M nên không đề cập xử lý.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận gì với phần luận tội của Kiểm sát viên.

Tại phiên tòa, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị Thanh M vắng mặt nên không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình là vi phạm pháp luật và mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Sơn Trà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, bị cáo Lê Nguyễn T đã khai nhận toàn bộ diễn biến sự việc mua và tàng trữ ma túy vào ngày 23/11/2019. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như kết quả giám định mà Cơ quan điều tra đã thu thập được. Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở để xác định bị cáo Lê Nguyễn T đã thực hiện hành vi phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Như vậy, bản cáo trạng số 25/CT-VKS ngày 26 tháng 02 năm 2020, của Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất vụ án và hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Ma túy hiện đang là tệ nạn của xã hội, gây ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, lao động, học tập của con người và là nguyên nhân của các tội phạm khác. Bị cáo Tuấn nhận thức được các tác hại đó, biết được hành vi tàng trữ, sử dụng ma túy là nguy hiểm cho xã hội và bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Cụ thể, để có ma túy sử dụng cho nhu cầu nghiện của bản thân, vào 19 giờ 30 phút ngày 23/11/2019, Lê Nguyễn T đã mua 4,311 gam ma túy loại Ketamine với giá 7.000.000 đồng của một đối tượng tên H (chưa rõ nhân thân, lai lịch) tại một kiệt trên đường N (gần khu vực chợ M). Sau khi mua được ma túy, T cất ma túy vào túi áo da phía trước, bên trái của T đang mặc. Vào 20 giờ cùng ngày, khi T điều khiển xe mô tô hiệu Air Blade, BKS: 92E1 – 33895 đi đến trước số nhà 81 đường V, phường N, quận S, thành phố Đà Nẵng thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang đang tàng trữ trái phép số ma túy nêu trên. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, đồng thời còn xâm phạm nghiêm trọng đến sức khỏe của con người.

[4]. Tình tiết tăng nặng: Không có.

[5]. Xét tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, rõ ràng nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS đối với bị cáo.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Do không xác minh được tài sản riêng của bị cáo nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[7]. Về xử lý vật chứng:

[7.1]. Đối với 01 phong bì niêm phong số 321/GĐ - MT ngày 27/11/2019 của Phòng KTHS Công an thành phố Đà Nẵng bên trong có chứa 2,828 gam Ketamine – là khối lượng ma túy hoàn lại sau giám định và toàn bộ vỏ bao gói là vật chứng của vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7.2]. Đối với 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu xám, số IMEI: 354420060594407 của Lê Nguyễn T cần tiếp tục quy trữ để đảm bảo thi hành án.

(Toàn bộ số vật chứng này hiện nay do Chi cục Thi hành án quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/03/2020).

[8]. Đối với đối tượng đã liên hệ với H để giúp T mua trái phép chất ma tuý và đối tượng H đã bán trái phép chất ma túy cho T do chưa xác định nhân thân, lai lịch, Cơ quan CSĐT Công an quận Sơn Trà tách ra tiếp tục điều tra, xác minh xử lý sau là phù hợp.

[9]. Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý của Lê Nguyễn T, Công an quận S đã ra Quyết định xử lý hành chính là có cơ sở;

[10]. Đối với 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Air Blade, BKS: 92E1 – 33895, số máy: JF63E1484489, số khung: 630XFY130390 qua điều tra xác minh chủ sở hữu là Võ Thị Thanh M đã cho Lê Nguyễn T mượn để làm phương tiện đi lại. Bà M hoàn toàn không biết Lê Nguyễn T dùng chiếc xe trên làm phương tiện để đi mua ma túy. Cơ quan CSĐT Công an quận Sơn Trà đã trao trả lại chiếc xe cho bà M nên không đề cập xử lý.

Xét các đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa hôm nay phù hợp với nhận định của HĐXX nên chấp nhận.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lê Nguyễn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

1/ Áp dụng: Điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Lê Nguyễn T 03 (Ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ (23/11/2019).

2/ Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS và Điều 106 BLTTHS;

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong số 321/GĐ - MT ngày 27/11/2019 của Phòng KTHS Công an thành phố Đà Nẵng bên trong có chứa 2,828 gam Ketamine – là khối lượng ma túy hoàn lại sau giám định và toàn bộ vỏ bao gói.

- Tiếp tục quy trữ 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu xám, số IMEI: 354420060594407 của Lê Nguyễn Tuấn để đảm bảo thi hành án. (Toàn bộ số vật chứng này hiện nay do Chi cục Thi hành án quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/03/2020).

3/ Án phí HSST: Bị cáo Lê Nguyễn T phải chịu 200.000 đồng.

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được trích sao bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 28/2020/HS-ST ngày 07/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:28/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Sơn Trà - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;