Bản án 28/2020/HNGĐ-ST ngày 30/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM THÀNH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 28/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 120/2020/TLST-HN&GĐ ngày 15 tháng 5 năm 2020 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2020/QĐXXST-HN&GĐ ngày 15/7/2020, Quyết định hoãn phiên toà số 27/2020/QĐST-HN&GĐ ngày 31/7/2020, Quyết định hoãn phiên toà số 33/2020/QĐST-HN&GĐ ngày 26/8/2020, Quyết định hoãn phiên toà số 41/2020/QĐST-HN&GĐ ngày 14/9/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H – sinh năm 1977 Nơi ĐKHKTT: Thôn NĐ, xã TK, huyện KT, tỉnh HD Nơi cư trú: Thôn Hưng H, xã Liên H, huyện KT, tỉnh HD.

Bị đơn: Anh Vũ Văn H – sinh năm 1977 Nơi ĐKHKTT, nơi cư trú: Thôn NĐ, xã TK, huyện KT, tỉnh HD. (Chị H có mặt, anh H vắng mặt) Người làm chứng:

- Ông Vũ Minh H – sinh năm 1953 Trú tại: Thôn NĐ, xã TK, huyện KT, tỉnh HD - Bà Phạm Thị R – sinh năm 1947 Trú tại: Thôn Hưng H, xã Hưng H, huyện KT, tỉnh HD Đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu có trong hồ sơ, nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày: Chị và anh Vũ Văn H kết hôn năm 2000 tại UBND xã TK, huyện KT, tỉnh HD trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn anh chị sống chung tại nhà bố mẹ anh H và sống hạnh phúc được khoảng gần 1 năm thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không hợp nhau, anh H nghe lời bố mẹ thường xuyên đánh đập chửi bới chị. Cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc, thường xuyên xảy ra xúc phạm nhau, trong cuộc sống giữa chị và bố mẹ chồng cũng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn nên anh H thường nghe lời bố mẹ rồi quay ra gây sự và đánh chị. Mâu thuẫn của anh chị đã được hai bên gia đình khuyên bảo hòa giải nhiều lần nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không thể hàn gắn được. Chị đã về nhà bố mẹ đẻ ở Hưng H – Liên H ở từ đầu tháng 4 năm 2020, vợ chồng chị chính thức ly thân nhau từ đó cho tới nay, không ai còn quan tâm tới ai nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống cùng nhau, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, chị đề nghị được ly hôn với anh Vũ Văn H.

Về con chung: Chị và anh H có 2 con chung: Vũ Trượng Ph – sinh ngày 10/8/2001 và Vũ Thị V – sinh ngày 09/12/2007. Cháu Phu đã trưởng thành, tự lập, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Cháu V đang ở với anh H. Sau khi ly hôn chị tự nguyện giao cháu V cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung vì hiện tại công việc, thu nhập của chị không ổn định nên không thể có điều kiện chăm sóc con chung được. Anh H làm buôn bán có thu nhập nên sẽ đảm bảo tốt việc nuôi con, hơn nữa bố mẹ anh H cũng luôn tạo điều kiện tốt nhất để chăm sóc cho con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị và anh H tự thỏa thuận, chị tự nguyện không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản ghi lời khai bị đơn anh Vũ Văn H trình bày: Anh và chị H kết hôn năm 2000 tại UBND xã TK, huyện KT, tỉnh HD trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn anh chị chung sống với nhau tại xã TK, huyện KT cùng với bố mẹ anh. Trong quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên trục trặc, chị H không chăm lo cho cuộc sống gia đình, khi vợ chồng cãi nhau thì chị H tự ý 20 lần bỏ nhà đi trong khi đó con anh còn rất nhỏ. Chị H bỏ đi khoảng 1-2 tháng, có lúc vào miền nam. Sau đó gia đình khuyên bảo nhiều lần nên chị H đã quay về. Nhưng khi chị H quay về thì vợ chồng cũng chỉ chung sống với nhau được một thời gian thì lại phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng thường xuyên cãi nhau về công việc, cuộc sống nên vợ chồng không có hạnh phúc. Vợ chồng chính thức ly thân nhau khoảng 4 tháng nay, anh cũng như gia đình đã khuyên bảo chị H nhiều lần nhưng chị H vẫn kiên quyết không quay về chung sống cùng anh. Anh cũng đã nhận được giấy triệu tập, thông báo của Toà án nhân dân huyện KT gửi cho anh, anh cũng nhất trí để Toà án nhân dân huyện KT giải quyết nhưng do công việc của anh bận không thể về được. Chị H xin ly hôn anh, anh không đồng ý ly hôn vì anh muốn vợ chồng quay về đoàn tụ với nhau. Nếu chị H thống nhất việc trả nợ thì anh cũng sẽ đồng ý ly hôn.

Về con chung: Anh và chị H có 2 con chung: Vũ Trượng Ph – sinh năm 2001 đã trưởng thành, anh không yêu cầu giải quyết và Vũ Thị V – sinh năm 2007. Hiện tại cháu V đang ở cùng anh. Nếu anh chị phải ly hôn thì anh có nguyện vọng được nuôi cháu Vân. Anh không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung vợ chồng anh không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: Anh và chị H có 1 số khoản nợ chung bao gồm nợ ngân hàng và những người thân, anh chỉ xác định tổng nợ chung khoảng 500.000.000 đồng. Anh không thể kê khai chi tiết từng khoản nợ, cũng như họ tên, địa chỉ của người cho vay, ngân hàng vay. Anh cũng không yêu cầu Toà án giải quyết vì anh muốn vợ chồng về thống nhất thoả thuận với nhau về khoản nợ chung của vợ chồng. Nếu không thoả thuận được thì anh sẽ yêu cầu Toà án giải quyết sau.

Toà án làm việc với ông Vũ Minh H là bố đẻ anh H xác định: Sau khi anh H, chị H kết hôn và chung sống với nhau tại gia đình ông được một thời gian ngắn thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do chị H không chịu làm ăn và thường bỏ nhà đi, anh H thường hay uống rượu nên chị H không thích nên thường xuyên vợ chồng cãi nhau. Hiện tại chị H đã về nhà bố mẹ đẻ ở thôn Hưng H, xã Liên H, huyện KT sinh sống từ tháng 4 năm 2020 cho tới nay, không trở về chung sống cùng anh H nữa. Nếu anh H được nuôi con thì ông sẽ tạo điều kiện tốt nhất về chỗ ăn ở sinh hoạt cho bố con anh H. Chị H và anh H có tài sản hay nợ chung gì thì ông không biết.

Bà Phạm Thị R là mẹ đẻ chị H cũng xác định: Trong quá trình chung sống giữa chị H và anh H có phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh H thường xuyên gây sự và đánh đập chị H nên vào tháng 4 năm 2020 chị H đã phải bỏ về nhà bà sinh sống từ đó cho tới nay, không trở về chung sống cùng anh H nữa.

Toà án xác minh tại UBND xã TK và thôn NĐ xác định: Anh H và chị H trong quá trình chung sống có phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh H thường hay đánh đập, xúc phạm chị H, vợ chồng làm kinh tế không hợp nhau, bất đồng quan điểm. Chị H đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở thôn Hưng H, xã Liên H từ tháng 4 năm 2020 cho tới nay.

Tòa án đã ra quyết định đưa vụ án ra xét xử và triệu tập anh H đến tham gia phiên tòa nhưng anh H vắng mặt. Tòa án quyết định hoãn phiên tòa và triệu tập anh H đến phiên tòa, nhưng tại phiên tòa hôm nay anh H vẫn vắng mặt. Tại phiên toà, chị H giữ nguyên quan điểm và yêu cầu khởi kiện. Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh HD phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa thực hiện đúng thủ tục tố tụng; nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự, bị đơn chưa chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 56, các Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Về hôn nhân: xử cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Vũ Văn H. Về con chung: xác định anh H, chị H có 2 con chung: Vũ Trượng Phu – sinh năm 2001 đã trưởng thành, tự lập và Vũ Thị Vân – sinh năm 2007. Giao con chung Vũ Thị V cho anh Vũ Văn H tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc đến khi trưởng thành đủ 18 tuổi; Ghi nhận sự tự nguyện của anh H về việc không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh. Về án phí: buộc chị H phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Anh H đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần 2 nhưng vẫn vắng mặt, căn cứ Điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án xét xử vắng mặt anh H.

[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Vũ Văn H kết hôn vào năm 2000, việc kết hôn tuân thủ các điều kiện kết hôn theo luật định, được xác nhận là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống với nhau khoảng một năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do không hợp nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng thường xuyên cãi, đánh chửi nhau, không có sự tôn trọng và yêu thương nhau. Anh chị đã sống ly thân từ tháng 4 năm 2020 đến nay nhưng anh H cũng không có biện pháp gì để cải thiện quan hệ hôn nhân với chị H. Mục đích của anh H muốn chị H thống nhất được các khoản nợ với anh thì anh sẽ đồng ý ly hôn, điều đó chứng tỏ tình cảm vợ chồng giữa anh H và chị H không còn. Trong quá trình Toà án thụ lý giải quyết vụ án, anh H không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án để Tòa án hòa giải; thể hiện việc anh H bỏ mặc cho quan hệ hôn nhân đổ vỡ. Chị Hiền vẫn kiên quyết đề nghị xin ly hôn với anh H. Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Toà án chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị H xin được ly hôn anh Vũ Văn H là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Chị H và anh H có hai con chung Vũ Trượng Phu – sinh năm 2001 đã trưởng thành và Vũ Thị V – sinh năm 2007. Chị H tự nguyện giao con chung Vũ Thị Vân cho anh Vũ Văn H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Xét thấy hiện tại con chung Vũ Trượng Ph đã trưởng thành và tự lập. Hiện tại cháu Vũ Thị V đang ở cùng anh H và anh H có nguyện vọng được nuôi cháu Vân, gia đình anh H cũng tạo điều kiện tốt nhất để anh nuôi con. Chị H có nguyện vọng giao cháu Vũ Thị Vân cho anh H nuôi vì chị xác định chị không đủ điều kiện kinh tế để nuôi con. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt và sự phát triển của cháu Vân; không làm xáo trộn cuộc sống, ảnh hưởng đến tâm lý của con chung, Toà án giao con chung Vũ Thị V cho anh H được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Chấp nhận sự tự nguyện của anh H không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[4] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Vũ Văn H đều không yêu cầu Toà án phải giải quyết nên Toà án không xét.

Về nợ chung: Toà án đã nhận được đơn trình bày của anh H có kê khai ra số nợ mà theo anh xác định là nợ chung của vợ chồng. Ngày 18/6/2020 Toà án đã ra thông báo về việc yêu cầu anh ghi rõ cụ thể họ tên, địa chỉ của người, tổ chức cho vay nợ, số tiền vay nợ và cung cấp các tài liệu, chứng cứ cho Toà án và đã tống đạt hợp lệ cho anh H nhưng anh H không cung cấp bất kỳ tài liệu gì cho Toà án liên quan đến khoản nợ. Tại biên bản ghi lời khai ngày 22/7/2020 anh H cũng xác định anh chỉ xác định tổng nợ chung khoảng 500.000.000 đồng. Anh không thể kê khai chi tiết từng khoản nợ, cũng như địa chỉ, họ tên của người cho vay và ngân hàng cho vay. Anh cũng không yêu cầu giải quyết trong vụ án này vì anh muốn vợ chồng anh về thoả thuận thống nhất với nhau về khoản nợ chung của vợ chồng. Nếu không thoả thuận được thì anh sẽ yêu cầu giải quyết sau.

[5] Về án phí: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Chị H có đơn yêu cầu ly hôn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, các Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147, Điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Về hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Vũ Văn H.

2. Về con chung: Chị H và anh H có hai con chung: Vũ Trượng Ph, sinh năm 2001 đã trưởng thành, tự lập và Vũ Thị V - sinh ngày 09/12/2007. Giao con chung Vũ Thị V cho anh Vũ Văn H tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi. Chấp nhận sự tự nguyện của anh H về việc không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con chung. Chị H có quyền và nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở.

3. Án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn là 300.000 đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số: AA/2018/0001429 ngày 15/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kim Thành, tỉnh HD. Chị Nguyễn Thị H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm ly hôn.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 28/2020/HNGĐ-ST ngày 30/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:28/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Thành - Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;