TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 28/2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/08/2020 VỀ LY HÔN GIỮA BÀ K VÀ ÔNG H
Ngày 28 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 160/2020/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 5 năm 2020 về việc “ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Phạm Thị K; sinh năm 1980; trú tại: Số nhà X, đường K, phường B’, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H; sinh năm 1970; trú tại: Số nhà X, đường K, phường B’, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.
(Nguyên đơn, bị đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn xin ly hôn đề ngày 03/6/2019 cũng như trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Phạm Thị K trình bày: Giữa nguyên đơn và bị đơn là ông Nguyễn Văn H kết hôn vào ngày 16/7/2007, đăng ký kết hôn lại tại Ủy ban nhân dân phường B’, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng, hôn nhân tự nguyện. Trước khi kết hôn hai người có thời gian tìm hiểu khoảng 01 năm. Vợ chồng sống chung hạnh phúc được 07 năm thì phát sinh mâu thuẫn, chủ yếu là tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống. Xét thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà K yêu cầu được ly hôn với ông H.
Về con chung: Bà K trình bày, bà và ông H có 03 con chung là Nguyễn Minh Ch, sinh ngày 03 tháng 6 năm 2009; Nguyễn Ngọc K A, sinh ngày 27/9/2012 và Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 01/01/2014. Bà K yêu cầu được nuôi cháu A và cháu K, đồng ý giao cháu Ch cho ông H nuôi, ông H không phải cấp dưỡng nuôi con
Về tài sản chung và nợ chung: Bà K không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại văn bản ngày 13/5/2020 bị đơn ông Nguyễn Văn H trình bày: Ông H thống nhất với ý kiến của bà K về quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản chung và nợ chung như bà K trình bày, nhưng ông không đồng ý ly hôn với bà K vì ông cho rằng mâu thuẫn vợ chồng tuy có nhưng chưa đến mức phải ly hôn. Ông H yêu cầu được đoàn tụ để nuôi dạy các con trưởng thành. Bà K và ông H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật: Kể từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm xét xử Thẩm phán, Thư ký đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Các đương sự đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo trình tự của phiên tòa sơ thẩm quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà K, cho bà K và ông H ly hôn. Giao con chung Nguyễn Ngọc K A, sinh ngày 27/9/2012 và Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 01/01/2014 cho bà K nuôi; giao Nguyễn Minh Ch, sinh ngày 03 tháng 6 năm 2009 cho ông H nuôi, ông H không phải cấp dưỡng nuôi con. Bà K phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Bà Phạm Thị K và ông Nguyễn Văn H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, căn cứ Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử theo thủ tục chung.
[2]. Xác định quan hệ tranh chấp: Bà Phạm Thị K có đơn xin ly hôn với ông Nguyễn Văn H, do vậy căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự xác định quan hệ tranh chấp là Ly hôn thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thành phố B.
[3]. Áp dụng luật nội dung: Quan hệ Hôn nhân và Gia đình được xác lập năm 2007 nên áp dụng luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 để giải quyết.
[4]. Về quan hệ hôn nhân: Giữa bà Phạm Thị K và ông Nguyễn Văn H kết hôn vào ngày 16/7/2007, đăng ký kết hôn lại tại Ủy ban nhân dân phường B’, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng, hôn nhân tự nguyện. Trước khi kết hôn hai người có thời gian tìm hiểu khoảng 01 năm. Vợ chồng sống chung hạnh phúc được 07 năm thì phát sinh mâu thuẫn, chủ yếu là tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống. Năm 2018 bà K đã có đơn xin ly hôn với ông H gởi Tòa án sau đó rút yêu cầu nên Tòa án đã ban hành Quyết định đình chỉ số 33/2018/QĐST-HNGĐ ngày 21/5/2018. Xét thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, cho bà K được ly hôn với ông H.
[5]. Về con chung: Bà K yêu cầu được nuôi cháu A và cháu K, đồng ý giao cháu Ch cho ông H nuôi và được ông H đồng ý. Do vậy cần giao cháu A và cháu K cho bà K nuôi, giao cháu Ch cho ông H nuôi. Các đương sự thỏa thuận không ai phải cấp dưỡng nuôi con.
[6]. Về tài sản chung và nợ chung: Bà K và ông H không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.
[7]. Về án phí: bà K phải nộp án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng các Điều 85, 91, 92, 93, 94 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
1/ Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Phạm Thị K và ông Nguyễn Văn H.
2/ Về con chung: Giao cháu Nguyễn Ngọc K A, sinh ngày 27/9/2012 và Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 01/01/2014 cho bà K nuôi; giao cháu Nguyễn Minh Ch, sinh ngày 03 tháng 6 năm 2009 cho ông H nuôi; ông H, bà K không phải cấp dưỡng nuôi con.
3/ Về án phí: Bà Phạm Thị K phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí HNGĐ sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số AA/2016/0016740 ngày 18/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B.
Trong thời hạn là 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc ngày niêm yết bản án nguyên đơn và bị đơn có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.
Bản án 28/2020/HNGĐ-ST ngày 28/08/2020 về ly hôn giữa bà K và ông H
Số hiệu: | 28/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/08/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về