Bản án 28/2019/HSST ngày 24/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LƯƠNG SƠN, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 28/2019/HSST NGÀY 24/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lương Sơn tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 30/2019/TLST-HS ngày 17/6/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2019/QĐXXST-HS ngày 09/7/2019 đối với bị cáo:

Bùi Quang H, tên gọi khác: Không. Sinh ngày 25/8/1999 Nơi cư trú: Xóm Đ, xã O, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Bùi Thanh D và con bà Nguyễn Thị P; Vợ; Con: Chưa; Tiền án; Tiền sự: Không. Bị tạm giữ ngày 15/02/2019 đến ngày 24/02/2019. Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 24/02/2019 cho đến nay. Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 22 giờ, ngày 09/02/2019 Bùi Quang H, SN:1999, HKTT: Đ, xã O, huyện L, tỉnh Hòa Bình và Đinh Ngọc Th, SN: 1999 nhà ở xóm M, xã O, huyện L, Hòa Bình gặp nhau tại quán chơi Internet ở xã Q. Khi quán internet đóng cửa, Th bảo H cho đi nhờ xe về nhưng lại nói chờ Đỗ Đức H, SN: 2001, HKTT: xóm M, xã O, huyện L, Hòa Bình. Một lúc sau Đỗ Đức H và Nguyễn Văn H, SN: 1995, HKTT: xóm M, xã E, huyện L, Hòa Bình đi đến và rủ Th, Bùi Quang H đi về nhà nghỉ T ở xã O để sử dụng ma túy. Trong lúc sử dụng, Nguyễn Văn H có hỏi H “Mai rảnh không có xe thì đi với anh”. H trả lời: “Có nhưng mà không có xe”. Sau khi sử dụng ma túy xong thì Nguyễn Văn H đi xe máy về nhà. H, Đỗ Đức H và Th đi về nhà Đ. Đến khoảng 07 giờ ngày 10/02/2019, Đỗ Đức H nói H đi cùng với Nguyễn Văn H ra Hà Nội. H nói không có xe. Đỗ Đức H nói có người đến đón. H đồng ý. H chở Th và Đỗ Đức H đi xuống UBND xã O đi đến bưu điện xã O thì gặp là Bùi Quang H1, SN:2000, HKTT: xóm A, xã Đ, huyện L, Hòa Bình. Th sang xe của Bùi Quang H1 ở xã E. Sau đó chở Th và Đỗ Đức H về nhà. H trả xe cho mẹ rồi lên xe của H1 đi đến nhà Đỗ Đức H. Khi gần đến nhà thì gặp Đỗ Đức H đưa cho H 1.000.000 đồng (một triệu đồng) và dặn H đưa tiền cho Nguyễn Văn H. Sau đó H1 chở Bùi Quang H lên xã I để gặp Nguyễn Văn H đưa tiền rồi H1 đi đâu không rõ. Khoảng 12 giờ, Nguyễn Văn H gọi điện thoại cho Đỗ Đức H bảo đưa tiền thêm để đi. Sau đó, Nguyễn Văn H lại gọi điện thoại cho ai đó hỏi “Khi nào có nhà”, người kia trả lời là “khoảng 16 giờ có nhà”. Sau đó Nguyễn Văn H trở H đi xuống xã O để lấy thêm tiền từ Đỗ Đức H 150.000 đồng (một trăm năm mươi nghìn đồng). Nguyễn Văn H cầm tiền rồi điều khiển xe chở H đi ra Hà Nội. Khoảng 14 giờ 30 phút, Nguyễn văn H chở H đến một nhà hai tầng (H không rõ địa chỉ ở Hà Nội) ở gần một quán tạp hóa, H gặp một người đàn ông tên H2 khoảng 20-30 tuổi ra mở cửa, vào bên H gặp một người đàn ông tên C, lên đến tầng hai H gặp một người phụ nữ tên H3 khoảng ngoài 30 tuổi và một đứa trẻ nhỏ. H3 hỏi Nguyễn Văn H:“hôm nay lấy bao nhiêu” thì lúc này H hiểu H3 hỏi Nguyễn văn H mua ma túy như thế nào. Nguyễn văn H trả lời: “bằng hôm qua”. H3 bảo H2 ở Hà Nội lấy ma túy đưa cho Nguyễn Văn H. H2 ở Hà Nội lấy một gói ma túy đặt xuống nền nhà, Nguyễn văn H đưa cho số tiền 800.000 đồng (tám trăm nghìn đồng) và nợ lại 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng). Nguyễn văn H cầm gói ma túy đi vào nhà vệ sinh khoảng 5-10 phút thì quay ra trên tay cầm hai gói ma túy được bọc bằng băng dính. Bùi Quang H và Nguyễn văn H cùng sử dụng ma túy với H3, C và H2 khoảng 5 phút thì ra về. Khi xuống tầng một, Nguyễn văn H cho vào mỗi chiếc giày một gói ma túy rồi đi về. Khi về đến khu vực Miếu Môn thì Nguyễn văn H gọi điện thoại cho Đỗ Đức H để hẹn gặp giao ma túy. Bùi Quang H và Nguyễn Văn H gặp Đỗ Đức H tại ngã ba xã Đ, huyện L, Hòa Bình. Nguyễn Văn H lấy từ trong hai chiếc giày ra hai gói ma túy đưa cho Đỗ Đức H. Nguyễn Văn H bảo Đỗ Đức H đưa cho H số tiền 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) nhưng Đỗ Đức H không đưa nên Nguyễn Văn H bảo Đỗ Đức H đưa cho Huy một gói ma túy. Đỗ Đức H đưa cho H một gói ma túy, H cầm gói ma túy và Nguyễn Văn H chở H về nhà.

Đến ngày 15/02/2019, Bùi Quang H đã đến Cơ quan CSĐT Công an huyện Lương Sơn đầu thú về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy và đã tự nguyện giao nộp gói ma túy.Cơ quan CSĐT Công an huyện Lương Sơn đã niêm phong và yêu cầu giám định chất dạng tinh thể trong gói nilon màu trắng viền xanh thu giữ được của Bùi Quang H.

Tại Bản kết luận giám định số 38/KLGĐ-CAT-PC09 ngày 21/02/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình kết luận, chất dạng tinh thể trong gói nilon màu trắng viền xanh thu giữ của Bùi Quang H có khối lượng 0,14 gam (không phẩy mười bốn gam), là ma túy loại Methamphetamine.

Methamphetamin nằm trong danh mục II, số thứ tự: 323, Nghị định số 73/2018/NĐ–CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Cáo trạng số 21/ CT - VKSLS ngày 13 tháng 6 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lương Sơn truy tố Bùi Quang H về tội Tàng trữ trái phép ma túy, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự .

Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Quang H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như đã khai tại cơ quan điều tra.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lương Sơn tại phiên tòa, giữ nguyên Quyết định truy tố bị cáo Bùi Quang H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt Bùi Quang H từ 12 - 18 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự và điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì nguyên vẹn, một mặt ghi “ MẪU GIÁM ĐỊNH MA TÚY”, cán bộ giám định: Đỗ Thành Công, ngày niêm phong 21/02/2019, số nhận giám định số: 38 ngày 16/02/2019, số thông báo KLGĐ số 38 ngày 21/02/2019. Cơ quan trưng cầu giám định Cơ quan CSĐT Công an huyện Lương Sơn số: 55 ngày 16/02/2019, tên đối tượng Bùi Quang H, tên mẫu vật Methamphetamine, số lượng 01. Tại mép dán có dấu tròn niêm phong của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình.

Bị cáo Bùi Quang H không có ý kiến tranh luận.

Bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm mức án cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến và đề nghị Kiểm sát viên và bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, hội đồng xét xử xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, của Viện kiểm sát huyện Lương Sơn trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa bị cáo không có khiếu nại gì. Do vậy các Quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Vào khoảng 14 giờ 30 phút, ngày 10/02/2019 Nguyễn văn H điều khiển xe mô tô chở Bùi Quang H từ nhà đi ra Hà Nội đến một nhà hai tầng gặp một người đàn ông tên H2 và một người phụ nữ tên là H3 và một người đàn ông tên là C để mua ma túy.Nguyễn Văn H đưa 800.000 đồng (m trăm nghìn đồng) mua ma túy và nợ lại 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) và được người đàn ông tên H2 bán cho 01 gói ma túy. Mua ma túy xong, Nguyễn Văn H chia nhỏ gói ma túy thành 02 túi nhỏ, cho vào mỗi chiếc giày một gói ma túy rồi đi về. Nguyễn Văn H gọi điện thoại hẹn gặp Đỗ Đức H giao ma túy. Khi đi đến ngã ba Quán Trắng xã Đ thì gặp Đỗ Đức H, lúc này Nguyễn Văn H đưa 02 gói ma túy cho Đỗ Đức H. Đỗ Đức H đưa cho Bùi Quang H một gói ma túy rồi Nguyễn Văn H chở H về nhà . Bùi Quang H cất giấu gói ma túy ở nhà nhằm mục đích để sử dụng nhưng do không có dụng cụ để sử dụng ma túy đến ngày 15/02/2019, Bùi Quang H đã đầu thú về hành vi Tàng trữ trái phép 0,14gam chất ma túy loại Methamphetamine.

Hành vi của bị cáo Bùi Quang H đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định của điều 249 Bộ luật hình sự. Vì vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Lương Sơn truy tố bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất hành vi phạm tội: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có nhận thức và hiểu biết pháp luật, bị cáo biết rõ nhà nước nghiêm cấm việc sản xuất, vận chuyển, mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng bị cáo vẫn cố ý cất giữu trái phép chất ma túy với mục đích để sử dụng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chế độ quản lý của nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an địa phương, gây ảnh hưởng sức khỏe con người, ma túy cũng là nguyên nhân làm phát triển các loại tội phạm. Vì vậy căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xử bị cáo mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và cách ly bị cáo ra khởi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự : Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Chưa có tiền án, tiền sự; đầu thú ; Gia đình được tặng huân chương hạng nhì; được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự nên khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo Bùi Quang H theo khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự.

[5] Đối với các đối tượng liên quan:

Đối với Đỗ Đức H và Nguyễn Văn H cơ quan CSĐT Công an huyện Lương Sơn đã khởi tố vụ án và khởi tố bị can về tội Mua bán trái phép chất ma túy nên không đề cập trong vụ án này.

Đối với Bùi Quang H1 là người đón H đến gặp Nguyễn Văn H đưa tiền, nhưng Bùi Quang H1 không biết mục đích đón H lên để làm gì nên không có căn cứ xử lý.

Đối với người đàn ông tên H2, C và người phụ nữ tên H3 đều ở Hà Nội, cơ quan CSĐT Công an huyện Lương Sơn tách ra tiếp tục điều tra xác minh, khi có đủ căn cứ sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với Đinh Ngọc Th, cơ quan CSĐT đang tiến hành điều tra để xem xét xử lý trong vụ án Đỗ Đức H và Nguyễn Văn H nên không đề cập xử lý trong vụ án này.

[6] Về vật chứng vụ án:

Áp dụng khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy:

- 01 phong bì nguyên vẹn, một mặt ghi “ MẪU GIÁM ĐỊNH MA TÚY”, cán bộ giám định: Đỗ Thành Công, ngày niêm phong 21/02/2019, số nhận giám định số: 38 ngày 16/02/2019, số thông báo KLGĐ số 38 ngày 21/02/2019. Cơ quan trưng cầu giám định Cơ quan CSĐT Công an huyện Lương Sơn số: 55 ngày 16/02/2019, tên đối tượng Bùi Quang Huy, tên mẫu vật Methamphetamine, sốlượng 01. Tại mép dán có dấu tròn niêm phong của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình.

[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố: Bị cáo Bùi Quang H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Bùi Quang H 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ 09 ngày tạm giữ.

3. Về vật chứng vụ án: Áp dụng Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy:

- 01 phong bì nguyên vẹn, một mặt ghi “ MẪU GIÁM ĐỊNH MA TÚY”, cán bộ giám định: Đỗ Thành Công, ngày niêm phong 21/02/2019, số nhận giám định số: 38 ngày 16/02/2019, số thông báo KLGĐ số 38 ngày 21/02/2019. Cơ quan trưng cầu giám định Cơ quan CSĐT Công an huyện Lương Sơn số: 55 ngày 16/02/2019, tên đối tượng Bùi Quang H, tên mẫu vật Methamphetamine, số lượng 01. Tại mép dán có dấu tròn niêm phong của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình.

Hiện trạng như biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lương Sơn với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lương Sơn ngày 10/7/2019.

4.Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Bùi Quang H phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 28/2019/HSST ngày 24/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:28/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lương Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;