TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 28/2019/HNGĐ-PT NGÀY 03/10/2019 VỀ TRANH CHẤP THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU LY HÔN
Ngày 03 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 34/2019/TLPT-HNGĐ, ngày 04 tháng 9 năm 2019, về “Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn”;
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 71/2019/HNGĐ-ST ngày 23/07/2019, của Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu bị kháng cáo;
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 36/2019/QĐ-PT, ngày 17 tháng 9 năm 2019; giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Võ Văn T, sinh năm 1990; cư trú tại: T1, ấp T2, xã T3, huyện T4, tỉnh Tây Ninh; có mặt.
- Bị đơn: Chị Trần Thị Bé H, sinh năm 1993; cư trú tại: Tổ H1, ấp T2, xã T3, huyện T4, tỉnh Tây Ninh; có mặt.
- Người kháng cáo: Anh Võ Văn T là nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 17-4-2019 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn – anh Võ Văn T trình bày: Anh và chị Trần Thị Bé H ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn số 291/2017/QĐST-HNGĐ ngày 31-8- 2017 của Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu. Theo quyết định này chị H được quyền chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Võ Văn U, sinh ngày 21-6-2012, anh không phải cấp dưỡng nuôi con.
Do chị H đi lấy chồng khác, chị H gửi cháu U cho mẹ chị H nuôi dưỡng nên anh đưa cháu U về ở với anh từ khoảng tháng 3 năm 2019 cho đến nay. Nay anh yêu cầu xin thay đổi người trực tiếp nuôi con, anh có nguyện vọng được nuôi dưỡng cháu U, any, đi cai nghiện mới về nên nhân thân của chồng chị H không tốt, cháu U sống chung nhà với vợ chồng chị H sẽ ảnh không yêu cầu chị H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con; vì chị H có chồng khác, chồng của chị H nghiện ma túh hưởng đến sự phát triển bình thường của cháu U sau này.
Anh có công việc làm và nơi ở ổn định, có nhà riêng, nhà chung vách với cha mẹ ruột anh nên có điều kiện chăm sóc và nuôi dưỡng con tốt hơn chị H.
Tại bản tự khai ngày 28-5-2019, bị đơn chị Trần Thị Bé H trình bày: Sau khi ly hôn với anh T, chị có chồng khác vào khoảng tháng 3 năm 2019. Chị đang ở chung nhà với gia đình chồng tại xã Bình Thạnh, huyện Trảng Bàng. Chồng chị vừa cai nghiện về, hiện tại đã hòa nhập cộng đồng, không còn sử dụng ma tuý. Chồng chị không làm gì ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của cháu U.
Khoảng tháng 3 năm 2019, khi chị về ở chung nhà với gia đình chồng chị tại xã Bình Thạnh, huyện Trảng Bàng, do cháu U đang đi học tại xã T3, huyện T4 nên chị để cháu U lại cho mẹ chị nuôi và đưa đi học, những ngày nghỉ chị rước con về sống cùng với gia đình chồng. Năm học mới chị sẽ chuyển hộ khẩu và đưa con về sống hẳn với gia đình bên chồng. Khoảng tháng 5 năm 2019, anh T đưa cháu U về nhà anh T nuôi dưỡng cho đến nay.
Nay chị không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh T, chị yêu cầu Tòa án giữ nguyên quyền được tiếp tục nuôi con cho chị. Chị không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Đồng thời, chị yêu cầu anh T có nghĩa vụ giao con lại cho chị được quyền tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.
Qua lời khai của cháu U, có nguyện vọng được sống chung với anh T là do anh T nuôn chiều cháu U nên cháu U muốn sống chung với anh T.
Bản án dân sự sơ thẩm số: 71/2019/HNGĐ-ST, ngày 23 tháng 7 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu đã quyết định:
Không chấp nhận yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn của anh Võ Văn T đối với chị Trần Thị Bé H.
Chị Trần Thị Bé H được quyền tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Võ Văn U, sinh ngày 21-6-2012 theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 291/2017/QĐST-HNGĐ ngày 31-8-2017 của Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu.
Buộc anh Võ Văn T có nghĩa vụ giao cháu Võ Văn U, sinh ngày 21-6-2012 lại cho chị Trần Thị Bé H được quyền tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 05-9-2019, anh Võ Văn T kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh.
Tại phiên tòa phúc thẩm anh Võ Văn T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh tại phiên tòa phúc thẩm:
+ Về tố tụng: Thẩm phán thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và quyết định đưa vụ án ra xét xử đều bảo đảm đúng quy định về thời hạn, nội dung, thẩm quyền của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng trình tự, thủ tục đối với phiên tòa dân sự. Những người tham gia tố tụng đều thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình, chấp hành tốt Nội quy phiên tòa.
+ Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Võ Văn T; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa; xét kháng cáo của anh T, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Xét kháng cáo của anh Võ Văn T yêu cầu cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh T về việc xin thay đổi người trực tiếp nuôi con; anh có nguyện vọng được nuôi dưỡng cháu Võ Văn U; anh không yêu cầu chị H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy:
[2] Anh T và chị H đều có công việc, thu nhập ổn định; thu nhập bình quân của chị H khoảng 8.000.000 (tám triệu) đồng/tháng; anh T thu nhập khoảng 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng/tháng. Chị H làm công nhân xí nghiệp; anh T cho thuê máy tuốt lúa. Xét thấy, anh T làm nghề nghiệp tự do; chị H làm công nhân xí nghiệp có ấn định về ngày giờ làm việc nên chị H có ít thời gian chăm sóc, giáo dục cháu U.
Hiện tại, anh T có nhà riêng; cháu U vẫn đi học và ở chung nhà với anh T tại xã T3, huyện T4. Chị H ở chung nhà với gia đình chồng chị H tại xã Bình Thạnh, huyện Trảng Bàng.
[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, chị Trần Thị Bé H trình bày: Sau khi ly hôn với anh T, khoảng tháng 3 năm 2019 chị H kết hôn với người khác và chị H về sống chung nhà với gia đình chồng tại xã Bình Thạnh, huyện Trảng Bàng. Trong thời gian này, do chị đi làm công nhân và sống chung nhà với gia đình chồng nên chị H không trực tiếp nuôi dưỡng cháu U, chị H giao cháu U cho mẹ chị H nuôi dưỡng. Do đó, anh T đưa cháu U về nhà anh T nuôi dưỡng cho đến nay.
Trong quá trình giải quyết vụ án, chị H xác nhận hiện tại anh T vẫn nuôi dưỡng, đảm bảo tốt về điều kiện sống cho cháu U.
Hiện tại anh T có chỗ ở riêng, thu nhập ổn định và có khoảng thời gian dài chị H không trực tiếp nuôi dưỡng cháu U, cụ thể chị H xác nhận chị gửi cháu U cho mẹ chị nuôi dưỡng và đưa đón đi học; do đó, cần giao cháu U cho anh T nuôi dưỡng và phù hợp với nguyện vọng của cháu U muốn được sống chung với anh T.
Do đó, cần chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Võ Văn T; không chấp nhận lời đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa; sửa bản án sơ thẩm; giao cháu U cho anh T được quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Võ Văn U.
Chị Trần Thị Bé H được quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.
Ghi nhận anh Võ Văn T không yêu cầu chị Trần Thị Bé H cấp dưỡng nuôi cháu Võ Văn U.
[4] Về án phí: Do sửa bản án sơ thẩm; chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Võ Văn T nên anh T không phải chịu tiền án phí Hôn nhân và gia đình phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
2. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Võ Văn T.
3. Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số: 71/2019/HNGĐ-ST, ngày 23 tháng 7 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh.
4. Căn cứ vào các điều 69, 71, 72, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về mức án phí, lệ phí Tòa án;
5. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Võ Văn T đối với chị Trần Thị Bé H, về việc “Xin thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn”.
6. Anh Võ Văn T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Võ Văn U, sinh ngày 21-6-2012 đến khi cháu U trưởng thành đủ 18 tuổi.
Chị Trần Thị Bé H được quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.
Buộc chị Trần Thị Bé H có nghĩa vụ giao cháu Võ Văn U, sinh ngày 21-6- 2012 cho anh Võ Văn T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.
Ghi nhận anh Võ Văn T không yêu cầu chị Trần Thị Bé H cấp dưỡng nuôi cháu Võ Văn U.
7. Về án phí:
7.1. Anh Võ Văn T phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí sơ thẩm anh T đã nộp theo Biên lai thu số 0009049 ngày 17-4-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh.
7.2. Anh T không phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình phúc thẩm. Hoàn trả cho anh T 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí Hôn nhân và gia đình phúc thẩm anh T đã nộp theo Biên lai thu số 0009547 ngày 05-8-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án dân sự hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
8. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
9. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 28/2019/HNGĐ-PT ngày 03/10/2019 về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn
Số hiệu: | 28/2019/HNGĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 03/10/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về