Bản án 28/2018/HNGĐ-ST ngày 27/12/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA VIỄN, TỈNH N

BẢN ÁN 28/2018/HNGĐ-ST NGÀY 27/12/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 27 tháng 12 năm 2018, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện G tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 110/2018/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 9 năm 2018 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2018/QĐXX-ST ngày 19 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Lê Văn Đ, sinh năm 1992.

Nơi đăng ký HKTT: Thôn L, xã G, huyện G, tỉnh N.

Bị đơn: Chị Vũ Thị T, sinh năm 1996.

Nơi đăng ký HKTT: Thôn L, xã G, huyện G, tỉnh N.

Chỗ ở hiện nay: Vũ X- G - Gia V-N.

Chị Thanh vắng mặt, anh Đại có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 23 tháng 4 năm 2018 và bản tự khai nguyên đơn anh Lê Văn Đ trình bày: Giữa anh và chị Vũ Thị T tự nguyện tìm hiểu và tiến tới hôn nhân, đã tiến hành đăng ký kết hôn ngày 02/12/2014 tại Uỷ ban nhân dân (UBND) xã G, huyện G, tỉnh N. Sau khi kết hôn chung sống tại thôn Lãng N, xã G, huyện G, tỉnh N. Vợ chồng chung sống hoà thuận, hạnh phúc được thời gian đầu sau đó thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng theo anh Đ là do hai người có tính cách bất đồng, trái ngược, quan điểm sống không hợp nhau không tôn trọng lẫn nhau, làm cho gia đình thường xuyên bất hòa. Anh Đ xác định tình cảm vợ chồng hiện nay đã mâu thuẫn trầm trọng, tình cảm không còn nên làm đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh N giải quyết cho anh được ly hôn với chị Vũ Thị T.

Về con chung: Anh Đ trình bày giữa anh và chị Vũ Thị T trong thời gian chung sống vợ chồng có 01 con chung là cháu Lê Nhật A sinh ngày 01/12/2015. Khi ly hôn anh Đ đề nghị được trực tiếp nuôi con chung và không yêu cầu chị T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và công nợ chung: Anh Đ trình bày: Anh không đề nghị Tòa án xem xét giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thông báo hợp lệ các văn bản tố tụng và đã nhiều lần tống đạt trực tiếp các loại văn bản tố tụng theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng chị T vẫn vắng mặt nên Tòa án không thể tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa anh Đ trình bày bổ sung là sau khi Tòa án thụ lý vụ án một thời gian chị T đã về nhà bố mẹ đẻ ở Vũ X- G- G - N sinh sống, từ đó vợ chồng ly thân và cháu Lê Nhật A đang ở với anh Đ. Các vấn đề khác anh Đ vẫn giữ nguyên quan điểm nêu trên của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, trên cơ sở xem xét toàn diện ý kiến của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận định:

Về thủ tục tố tụng: Bị đơn là chị Vũ Thị T có địa chỉ: Thôn Lãng N, xã G, huyện G, tỉnh N. Vì vậy việc Tòa án nhân dân huyện G áp dụng Điều 28; khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự để thụ lý giải quyết vụ án là đúng quy định của pháp luật. Bị đơn vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa không có lý do chính đáng nhưng đã được triệu tập hợp lệ nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử là đúng luật định.

Về quan hệ hôn nhân:

Hôn nhân của anh Lê Văn Đ và chị Vũ Thị T hoµn toµn hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Sau khi kết hôn hai người đã sống hoà thuận hạnh phúc được thời gian đầu sau đó thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do hai người có tính cách bất đồng, trái ngược, quan điểm sống không hợp nhau không tôn trọng lẫn nhau, làm cho gia đình thường xuyên bất hòa.

UBND xã G cũng xác nhận anh Đ và chị T hiện có mâu thuẫn trầm trọng và đã sống ly thân. Bản thân chị Vũ Thị T không có mặt tại Tòa án để làm việc trong khi chị T đang sống tại nhà bố mẹ đẻ ở Vũ X- Gia T- G- N, dù được Tòa án đến tận nơi tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng. Điều đó cũng chứng tỏ chị T cũng không có thiện chí hàn gắn quan hệ vợ chồng. Do đó có căn cứ xác định rằng mâu thuẫn vợ chồng anh Lê Văn Đ và chị Vũ Thị T đã trở nên trầm trọng, không thể tiếp tục duy trì cuộc sống chung, mục đích hôn nhân không đạt được, vì vậy cần chấp nhận yêu cầu của anh Lê Văn Đ xử cho anh Đ được ly hôn chị Vũ Thị T là phù hợp với quy định của pháp luật.

Về con chung. Anh Đ và chị Vũ Thị T trong thời gian chung sống có có 01 con chung là cháu Lê Nhật A sinh ngày 01/12/2015. Anh Đại và chị T không vi phạm nghĩa vụ làm cha mẹ, đều có đủ điều kiện nuôi con. Tuy nhiên UBND xã G cũng xác nhận từ khi vợ chồng ly thân đến nay cháu Lê Nhật A đang ở với anh Đ và bản thân anh Đ có thu nhập ổn định, đã chăm sóc cháu Lê Nhật A rất tốt. Do đó cần giao cháu Lê Nhật A cho anh Đ tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng là hợp lý. Việc cấp dưỡng tiền nuôi con chung do anh Đ không yêu cầu là tự nguyện nên cần chấp nhận, không buộc chị T phải đóng góp tiền nuôi con chung.

Về tài sản chung, công nợ chung: Anh Đ không có yêu cầu giải quyết quan hệ tài sản chung nên vấn đề này Tòa án không xét.

Về án phí: Anh Đ phải nộp án phí sơ thẩm ly hôn theo quy định của pháp luật.

Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 56, các Điều 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

1. Xử cho anh Lê Văn Đ được ly hôn vắng mặt chị Vũ Thị T.

2. Về con chung: Giao cho anh Lê Văn Đ được tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Lê Nhật A sinh ngày 01/12/2015, đến khi cháu Lê Nhật A đủ 18 tuổi. Chị Vũ Thị T không phải đóng góp tiền cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Không ai được ngăn cản quyền gặp gỡ và chăm sóc con chung.

3. Về án phí: Anh Lê Văn Đ phải nộp 300.000 đồng án phí sơ thẩm ly hôn. Được khấu trừ vào sè tiền tạm ứng án phí anh Đ đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân huyện G theo biên lai số AA/2013/0001111 ngày 17/9/2018.

Án xử công khai sơ thẩm nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao Bản án hoặc Bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

279
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 28/2018/HNGĐ-ST ngày 27/12/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:28/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Viễn - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/12/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;