Bản án 28/2017/HSST ngày 14/06/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KINH MÔN, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 28/2017/HSST NGÀY 14/06/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14-6-2017 tại trụ sở TAND huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 27/2017/HSST ngày 26 tháng 4 năm 2017 đối với bị cáo:

Đào Trung T1, sinh năm 1996; sinh trú quán tại khu T, thị trấn M, huyện K, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá: 5/12; con bà Đào Thị L; có vợ là Đỗ Thị H và 1 con;

Tiền án, tiền sự: Không

Bị cáo bị tạm giữ tại Nhà tạm giữ- Công an huyện Kinh Môn từ ngày 10-1-2017, đến ngày 13-1-2017 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Kim Chi - Công an tỉnh Hải Dương từ ngày 13-1-2017 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Đỗ Văn T2, sinh năm 1986. Vắng mặt

Trú tại: khu T, thị trấn M, huyện K, tỉnh Hải Dương.

2. Anh Lê Văn H, sinh năm 1989. Vắng mặt

Trú tại: thôn C, xã D, huyện K, tỉnh Hải Dương.

NHẬN THẤY

Bị cáo Đào Trung T1 bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Kinh Môn truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Tối ngày 5-01-2017, Đào Trung T1 gặp Đào Văn Th và bảo Th bán cho2.200.000 đồng ma túy đá. Khoảng 30 phút sau, Th đến nhà T1 đưa cho T1 1 túi nilon đựng ma túy đá, còn T1 đưa cho Th số tiền 2.200.000 đồng. Sau khi nhận được ma túy, T1 chia số ma túy trên thành 17 phần cho vào các túi nilon nhỏ rồi đem cất giấu vào trong ngăn tủ mục đích để sử dụng và để bán. Ngày 8-1-2017, T1 lấy 01 túi ma túy ra sử dụng. Chiều ngày 10-1-2017, Lê Văn H đến nhà Đỗ Văn T2 chơi và đưa cho Đỗ Văn T2 400.000 đồng nhờ mua hộ ma túy đá để H sử dụng. Khoảng 16 giờ cùng ngày, Đỗ Văn T2 và H đi bộ đến nhà Đào Trung T1. Đỗ Văn T2 gọi Đào Trung T1 ra cổng và hỏi mua 400.000 đồng ma túy đá. Đào Trung T1 cầm số tiền 400.000 đồng do Đỗ Văn T2 đưa cho và đi vào trong nhà lấy ở trong ngăn tủ ra 16 túi ma túy. Khi Đỗ Trung T1 cầm ra đưa cho Đỗ Văn T2 1 túi ma túy đá thì bị lực lượng công an huyện Kinh Môn phát hiện bắt quả tang, thu giữ trong tay trái của Đỗ Văn T2 1 túi nilon bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (được niêm phong ký hiệu M1); thu trong tay phải của Đào Trung T1 15 túi nilon bên trong đều chứa chất tinh thể màu trắng (được niêm phong ký hiệu M2) và thu trong tay trái của Đào Trung T1 số tiền 400.000 đồng. Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Đào Trung T1, cơ quan điều tra thu giữ trên mặt tủ đặt bên trái cửa ra vào 1 chiếc cân tiểu ly điện tử. Theo T1 khai do 1 người bạn cho nhưng hỏng nên không sử dụng được.

Tại bản kết luận giám định số 188/C54 (TT2) ngày 10-2-2017 của Viện khoa học hình sự- Tổng cục cảnh sát kết luận: Chất tinh thể màu trắng trong túi nilon trong phong bì ký hiệu M1 gửi giám định có trọng lượng 0,265 gam, có Methamphetamine. Chất tinh thể màu trắng trong 15 túi nilon trong phong bì ký hiệu M2 gửi giám định có tổng trọng lượng 2,020 gam, đều có Methamphetamine. Hoàn lại đối tượng giám định 2,064 gam tinh thể màu trắng có Methamphetamine và vỏ bao gói mẫu.

Tại bản cáo trạng số 27/VKS - HS ngày 26-4-2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo Đào Trung T1 về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự.

Sau khi thụ lý vụ án, TAND huyện Kinh Môn đã có Quyết định trưng cầu giám định bổ sung để xác định hàm lượng chất ma túy thu giữ của bị cáo

Tại bản kết luận giám định số 189/C54(TT2) ngày 26-5-2017 của Viện khoa học hình sự- Tổng cục cảnh sát kết luận: hàm lượng Methamphetamine trong mẫu tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu M1 gửi giám định là 67,2%; hàm lượng Methamphetamine trong mẫu tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu M2 gửi giám định là 66,9%.

Tại phiên toà: Bị cáo Đào Trung T1 khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng truy tố và xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kinh Môn tham gia phiên toà giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đào Trung T1 phạm tội "Mua bán trái phép chất ma tuý".

Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo T1 từ 30 tháng tù đến 33 tháng tù. Thời hạn chấp hành hìnhphạt tù tính từ ngày 10-01-2017.

- Về hình phạt bổ sung: đề nghị không áp dụng.

- Về xử lý vật chứng: áp dụng các điểm a, b, c khoản 1 Điều 41 của BLHS, các điểm a, c, đ khoản 2 Điều 76 của BLTTHS; Tịch thu và tiêu hủy số ma túy hoàn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu đựng trong 1 phong bì dán kín, 1 cân tiểu ly đã qua sử dụng. Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 400.000 đồng.

- Về án phí: áp dụng Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH về án phí, lệ phí Toà án; bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác

XÉT THẤY

Lời khai của bị cáo Đào Trung T1 tại phiên toà hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16 giờ ngày 10-1-2017, tại khu vực cổng nhà mình ở khu T, thị trấn M, huyện K, tỉnh Hải Dương, Đào Trung T1 có hành vi bán trái phép 0,265 gam Methamphetamine với hàm lượng 67,2% cho Đỗ Văn T2 và cất giấu trái phép2,020 gam Methamphetamine với hàm lượng 66,9% trong bàn tay phải với mục đích để sử dụng và để bán thì bị lực lượng công an huyện Kinh Môn phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng nêu trên.

Bị cáo T1 là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức hành vi thực hiện của mình là trái pháp luật nhưng vẫn bán trái phép 0,265 gam Methamphetamien với hàm lượng 67,2% và cất giấu trái phép 2,020 gam Methamphetamine với hàm lượng 66,9% để sử dụng và bán. Hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự. Do đó Viện kiểm sát nhân dân huyện Kinh Môn truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm và có tính chất nghiêm trọng đối với xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước. Trong tình hình hiện nay khi mà tệ nạn ma tuý đang là vấn đề nhức nhối, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác thì hành vi trên của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm và cần thiết cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới đủ tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung. Tuy nhiên tại quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo T1 thành khẩn khai báo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của BLHS.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập nên không cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 194 của Bộ luật hình  sự.

Bị cáo T1 khai số ma túy bị thu giữ do bị cáo mua của Đào Văn Th. Trong quá trình điều tra, Đào Văn Th không có mặt tại địa phương, tài liệu trong hồ sơ chưa đủ căn cứ xác định Th là người bán trái phép ma túy cho bị cáo T1. Cơ quan điều tra công an huyện Kinh Môn tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Đỗ Văn T2 có hành vi mua hộ trái phép 0,265 gam Methamphetamin cho Lê Văn H sử dụng. Hành vi trên của Đỗ Văn T2 và Lê Văn H chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên công an huyện Kinh Môn đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp.

Về xử lý vật chứng: Số ma túy hoàn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành cùng 1 vỏ bao gói mẫu, 1 cân tiểu ly không còn giá trị sử dụng và bị cáo T1 không yêu cầu nhận lại cần tịch thu, tiêu hủy. Số tiền 400.000 đồng là tiền do phạm tội mà có cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

Về án phí: Bị cáo phạm tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đào Trung T1 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Đào Trung T1 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hànhhình phạt tù tính từ ngày tạm tạm giữ 10-01-2017.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng các điểm a, b, c khoản 1 Điều 41 của Bộ luật hình sự, các điểm a, c, đ khoản 2 Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự;Tịch thu và tiêu hủy số ma túy hoàn lại sau giám định, vỏ bao gói mẫu được đựng trong 1 phong bì niêm phong và 1 cân tiểu ly.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 400.000 đồng.

(Tình trạng cụ thể của vật chứng theo biên bản bàn giao vật chứng giữa Cơ quan CSĐT- Công an huyện Kinh Môn và Chi cục THADS huyện Kinh Môn ngày10-5-2017 và Biên bản bàn giao vật chứng giữa Chi cục THADS huyện Kinh Môn và TAND huyện Kinh Môn ngày 13-6-2017).

4. Về án phí:

Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326 ngày 30-12-2016 của UBTVQH về án phí, lệ phí Toà án;

Buộc bị cáo Đào Trung T1 phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 28/2017/HSST ngày 14/06/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:28/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Kinh Môn - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/06/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;