Bản án 28/2017/HNGĐ-ST ngày 07/07/2017 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 28/2017/HNGĐ-ST NGÀY 07/07/2017 VỀ LY HÔN

Ngày 07 tháng 7 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Sơn Trà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 42/2017/TLST- HNGĐ ngày 21 tháng 3 năm 2017 về tranh chấp “Ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2017/QĐXX-ST ngày 05 tháng 6 năm 2017 và quyết định hoãn phiên tòa số: 46A/2017/QĐST-HPT ngày 16 tháng 6 năm 2017 giữa:

1. Nguyên đơn: Đoàn Diệu T - Sinh năm: 1995; Trú tại: Tổ A, phường B, quận S, thành phố Đà Nẵng, có mặt.

2. Bị đơn: Ông Trần Văn T - Sinh năm: 1992; Trú tại: Tổ X, phường Y, quận S, thành phố Đà Nẵng, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 01/3/2017, bản tự khai và tại phiên toà sơ thẩm hôm nay, nguyên đơn bà Đoàn Diệu T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà T và ông Trần Văn T kết hôn với nhau vào năm 2015, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Y, quận S, thành phố Đà Nẵng. Hôn nhân trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống chung với gia đình chồng Vợ chồng chung sống đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do quan điểm sống và tính tình không hợp, vợ chồng thường xuyên cải nhau, cuộc sống của bà và gia đình chồng không hòa hợp được. Khi mâu thuẫn xảy ra Bà T đã tự ý sống ly thân từ năm 2016 đến nay, bà và ông T không còn quan tâm chăm sóc nhau nữa. Nay bà xác định không còn yêu thương ông T nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Trần Văn T.

Về con chung: Bà T xác định không có

Về tài sản chung, nợ chung: Bà T xác định không có.

Bị đơn, ông Trần Văn T từ khi Toà án thụ lý vụ án cho đến khi xét xử không có mặt theo giấy triệu tập của Toà án, không có ý kiến đối với các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không tham gia hoà giải và cũng không tham gia phiên toà nên không có ý kiến lưu hồ sơ vụ án.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà phát biểu về sự tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và của các đương sự. Theo đó: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử tuân thủ đúng pháp luật từ khâu thụ lý, hòa giải, thu thập chứng cứ và mở phiên tòa xét xử đúng nguyên tắc chung. Nguyên đơn chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật tố tụng. Riêng bị đơn không thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình nên phải chịu hậu quả pháp lý về việc không tuân thủ quy định của pháp luật. Về nội dung xét thấy quan hệ hôn nhân của bà T và ông T đã thật sự trầm trọng nên cần áp dụng điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam cho bà T được ly hôn ông T; về con chung, tài sản chung, nợ chung bà T khai nại không có, ông T không có ý kiến trình bày nên không đề cập giải quyết, khi nào có tranh chấp các đương sự có yêu cầu khởi kiện sẽ giải quyết bằng vụ kiện dân sự khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, HĐXX nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Trần Văn T là bị đơn trong vụ án, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để tham gia tố tụng nhưng không có mặt. Tại phiên tòa hôm nay ông T vắng mặt lần thứ 2 không có lý do, vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 điều 227, điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 để xét xử vắng mặt bị đơn

[2] Về nội dung: Bà Đoàn Diệu T và ông Trần Văn T kết hôn năm 2015 do hai bên tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Y, quận S, Đà Nẵng theo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 126, quyển số 01 cấp ngày 26/10/2015. Đây là cuộc hôn nhân hợp pháp nên được Nhà nước công nhận và bảo vệ. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân theo bà T trình bày là do quan điểm sống và tính tình không hợp, vợ chồng thường xuyên cải nhau,mỗi lần cãi nhau ông T thường đuổi bà đi làm bà thấy bị tổn thương, cuộc sống của bà T và gia đình chồng không hòa hợp được. Khi mâu thuẫn xảy ra, ông T đuổi bà T đi nên bà T đã tự ý sống ly thân từ năm 2016 đến nay. Khi bà T về sống với gia đình của bà thì ông T tiếp tục đến gây sự, đòi chém giết bà và gây thương tích cho anh trai bà T được cơ quan công an phường Y giải quyết, giữa bà T và ông T không còn quan tâm chăm sóc nhau nữa. Quá trình tố tụng cũng như tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, bà T xác định không còn yêu thương ông T nên xin được ly hôn, còn ông T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên không có ý kiến về quan hệ hôn nhân này. Xét yêu cầu xin ly hôn của bà T thì thấy: Giữa bà T và ông T từ khi kết hôn năm 2015 đến nay hai bên chỉ chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Khi mâu thuẫn xảy ra cả hai bên đều không có giải pháp gì để hàn gắn và xây dựng lại gia đình. Đối với ông T có ý thức để mặc, không tham gia các phiên hòa giải, chứng tỏ không còn tha thiết với chính gia đình của mình. Mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, hai bên không còn mục đích xây dựng hạnh phúc chung. Đại diện tổ dân phố nơi ông bà sinh sống xác định giữa bà T và ông T có mâu thuẫn nên bà T đã tự ý sống ly thân với ông T từ năm 2016 đến nay. Do vậy, HĐXX xét thấy không cần thiết phải duy trì cuộc hôn nhân mà thực tế đã không còn tồn tại nữa mà giải quyết cho bà T được ly hôn với ông T là phù hợp quy định tại điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Bà Đoàn Diệu T xác định không có.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Bà Đoàn Diệu T đều xác định không có. Ông T không có ý kiến gì về các vấn đề này nên HĐXX không đề cập giải quyết. Sau này các đương sự có tranh chấp, khởi kiện tại Tòa án thì sẽ giải quyết bằng vụ án dân sự khác. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm 300.000 đồng nguyên đơn bà Đoàn Diệu T phải chịu. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 2 điều 227, điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chấp nhận đơn xin ly hôn của bà Đoàn Diệu T đối với ông Trần Văn T. Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: bà Đoàn Diệu T được ly hôn với ông ông Trần Văn T.

2. Về quan hệ con chung: Không có.

3. Về tài sản chung: Không đề cập đến.

4. Về nợ chung: Không đề cập đến.

* Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000 đồng bà Đoàn Diệu T phải chịu, được khấu trừ vào khoản tiền tạm ứng án phí bà T đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Sơn Trà, biên lai thu số 0001618 ngày 20/3/2017 Báo cho bà T biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm hôm nay, ngày 07/7/2017. Riêng ông T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

349
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 28/2017/HNGĐ-ST ngày 07/07/2017 về ly hôn

Số hiệu:28/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Sơn Trà - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;