Bản án 279/2019/HS-PT ngày 18/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

 TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 279/2019/HS-PT NGÀY 18/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 18 tháng 9 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 162/2019/TLPT-HS ngày 06 tháng 6 năm 2019 đối với các bị cáo Làu Thòng S và đồng phạm do có kháng cáo của các bị cáo Làu Thòng S, Vày Liền V, Hong Sủi M đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 59/2019/HS-ST ngày 22/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom.

- Các bị cáo có kháng cáo:

1. Làu Thòng S (tên gọi khác: M), sinh năm 1992 tại: Đồng Nai; nơi cư trú: Ấp A, xã T, huyện T1, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Hoa; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Làu Thầu H, sinh năm 1945 và bà Tằng Ủn C, sinh năm 1953; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại. Có mặt.

2. Vày Liền V, sinh năm 1991 tại: Đồng Nai; Nơi cư trú: Ấp A, xã T, huyện T1, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Hoa; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vày Nhộc B (Vày Nhọc B), sinh năm 1964 và bà Vòong Vày P (tên gọi khác Vòng Vầy P), sinh năm 1963; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại. Có mặt.

3. Hong Sủi M, sinh năm 1992 tại: Đồng Nai; Nơi cư trú: Ấp A, xã T, huyện T1, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Hoa; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hong A N, sinh năm 1961 và bà Chiếng A M, sinh năm 1961; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại. Có mặt.

Ngoài ra còn có bị cáo khác không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị; Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 23 giờ ngày 21/12/2018 Làu Thòng S, Hong Sủi M, Vày Liền V và Ngô Tuấn V1 cùng ngồi nhậu tại nhà V thuộc ấp Ấp A, xã T, huyện T1. Nhậu xong, S rủ M và V góp tiền lại và mời V1 lên quán bar RoMance chơi và mua ma túy để cùng sử dụng. S sử dụng điện thoại gọi cho T hỏi mua 03 viên ma tuý (thuốc lắc) và 01 chấm ma túy dạng khay, T đồng ý bán với giá 1.900.000 đồng (một triệu chín trăm nghìn đồng). T điều khiển xe mô tô biển số 60B2-410.12 đi xuống khu vực chợ tự phát thuộc khu phố 4, thị trấn T gặp một người thanh niên không rõ tên, địa chỉ mua 03 viên ma tuý (thuốc lắc) và 01 chấm ma túy khay với giá 1.700.000 đồng (một triệu bảy trăm nghìn đồng), sau đó mang ma túy đến quán bar Romance đưa cho S. S đưa cho T số tiền 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) và nói T mang số ma túy vào trong bàn ngồi cùng chơi với nhóm của S. T lấy số ma túy bỏ lên bàn sau đó chia cho V1, S và M mỗi người nửa viên thuốc lắc để sử dụng, V1 cầm nửa viên ma túy bỏ vào miệng, thấy đắng nên V1 đã vứt bỏ chỗ nào không rõ. Khi S, V, M, T đang sử dụng ma túy thì bị lực lượng Công an vào kiểm tra phát hiện bắt quá tang.

Vật chứng thu giữ:

+ 01 gói nylon hàn kín, bên trong chứa viên nén màu xanh không còn nguyện vẹn.

+ 01 gói nylon hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng.

+ 02 điện thoại di động gồm: 01 điện thoại di động hiệu Iphone X màu đen, có sim số 0948.604.180 của T và 01 điện thoại di động hiệu Samsung Note 8, có sim số 091.219.123 của S.

+ 01 xe mô tô nhãn hiệu Airblade, biển số 60B2.410.12.

+ Số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng).

Tại bản kết luận giám định số: 67/PC09-GĐMT ngày 27/12/2018 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận:

+ Phong bì 01: Được niêm phong vẫn còn nguyên vẹn, trên phong bì có các chữ ký ghi họ tên Lê Quỳnh T, Làu Thòng S, Hong Sủi M, Ngô Tuấn V1, Vày Liền V và dấu hình tròn màu đỏ Công an xã Q, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Sau khi mở niêm phong, bên trong có 01 (một) gói nylon hàn kín chứa viên nén màu xanh không còn nguyên vẹn (ký hiệu M1). Mẫu viên nén màu xanh không còn nguyên vẹn được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,4713 gam, loại: MDMA.

+ Phong bì 02: Được niêm phong vẫn còn nguyên vẹn, trên phong bì có chữ ký ghi họ tên Lê Quỳnh T, Làu Thòng S, Hong Sủi M, Ngô Tuấn V1, Vày Liền V và dấu hình tròn màu đỏ Công an xã Q, huyện T, tỉnh Đ. Sau khi mở niêm phong, bên trong có 01 (một) gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu M2). Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,2564gam, loại: Ketamine Tại Cáo trạng số: 70/CT/VKS-TB ngày 21/3/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Lê Quỳnh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự; truy tố các bị cáo Làu Thòng S, Vày Liền V và Hong Sủi M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại bản án sơ thẩm số 59/2019/HS-ST ngày 22/4/2019 của Toà án nhân dân huyện Trảng Bom đã áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt các bị cáo Làu Thòng S, Vày Liền V, Hong Sủi M 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về tội danh và hìn phạt với bị cáo khác, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 26/4/2019, bị cáo Làu Thòng S kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, ngày 02/5/2019 bị cáo Vày Liền V, Hong Sủi M kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Quan điểm Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai:

Hành vi của các bị cáo Làu Thòng S, Vày Liền V, Hong Sủi M đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm I khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét xử các bị cáo Làu Thòng S, Vày Liền V, Hong Sủi M mỗi bị cáo 01 năm tù là phù hợp với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của các bị cáo. Các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào khác ngoài những tình tiết đã được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử bác kháng cáo của các bị cáo, y án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: đơn kháng cáo của các bị cáo làm trong hạn luật định nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Xét kháng cáo của các bị cáo:

Tại phiên tòa, các bị cáo Làu Thòng S, Vày Liền V, Hong Sủi M thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu. Hồ sơ thể hiện: Vào lúc 00 giờ 20 phút ngày 22/12/2018 tại quán bar Romance, địa chỉ ấp Q, xã Q1, T, tỉnh Đồng Nai, Lê Quỳnh T đã có hành vi bán trái phép 0,4713 gam ma túy loại MDMA và 0,2564gam ma túy loại Ketamine cho Làu Thòng S, Hong Sủi M, Vày Liền V với giá 2.000.000 đồng (hai triệu đồng). Khi T cùng S, V và M đang sử dụng ma tuý thì bị Công an huyện Trảng Bom phát hiện bắt quả tang.

Toà án cấp sơ thẩm xác định các bị cáo Làu Thòng S, Vày Liền V, Hong Sủi M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ và đúng pháp luật.

Hành vi của các bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội tại địa phương.

Khi xét xử, Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ: các bị cáo thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải. Do đó, xử phạt mỗi bị cáo mức án 01 (một) năm tù là phù hợp và thoả đáng.

Tại cấp phúc thẩm, các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào khác chưa được xem xét. Các bị cáo không cung cấp được tình tiết nào mới do đó kháng cáo của các bị cáo không có căn cứ chấp nhận.

[3] Về án phí:

Kháng cáo của các bị cáo không được chấp nhận nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

1. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Làu Thòng S, Vày Liền V, Hong Sủi M; giữ nguyên bản án sơ thẩm số: 59/2019/HS-ST ngày 22/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom.

2. Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt:

- Bị cáo Làu Thòng S 01 (một) năm tù.

- Bị cáo Vày Liền V 01 (một) năm tù.

- Bị cáo Hong Sủi M 01 (một) năm tù.

Các bị cáo bị xử phạt về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Thời hạn tù tính từ ngày các bị cáo bị bắt đi thi hành án, trừ đi thời gian đã bị tạm giam từ ngày 22/12/2018 đến ngày 31/12/2018.

3. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH-14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội.

Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 279/2019/HS-PT ngày 18/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:279/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;