Bản án 279/2019/DS-PT ngày 05/09/2019 về tranh chấp hợp đồng dân sự mua bán hàng hóa

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 279/2019/DS-PT NGÀY 05/09/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ MUA BÁN HÀNG HÓA

Trong ngày 05 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 341/2019/TLPT-DS, ngày 30 tháng 7 năm 2019 về việc tranh chấp hợp đồng dân sự mua bán hàng hóa.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2019/DS-ST ngày 10 tháng 6 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện T bị kháng cáo;

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 312/2019/QĐ-PT ngày 14 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lý Thị Thu Ơ, sinh năm 1985;

Địa chỉ: khóm 3, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Chị Bùi Minh D, sinh năm 1986; địa chỉ: khóm 2, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp. Là người đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày 09/4/2019).

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1974;

Địa chỉ: ấp C, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

3. Người kháng cáo bà Nguyễn Thị T là bị đơn trong vụ án.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn chị Lý Thị Thu Ơ trình bày:

Trước đây, bà Nguyễn Thị T có mua hàng hóa của Cửa hàng Vật liệu xây dựng, trang trí nội thất Ba Sanh và còn nợ lại số tiền 53.499.500 đồng. Mặc dù đã nhắc nhở nhiều lần nhưng bà T vẫn chưa trả. Nay chị Ơ yêu cầu Tòa án buộc bà T phải trả số tiền mua hàng còn nợ là 53.499.500 đồng; và tiền lãi từ ngày 01/9/2018 đến ngày 11/3/2019 với số tiền là 17.030.000 đồng, tiếp tục tính lãi đến khi trả xong số nợ.

Tại phiên tòa chị Lý Thị Thu Ơ đồng ý giảm cho bà T 1.000.000 đồng theo như hòa giải trước đây, yêu cầu bà Tuyết phải trả số tiền còn nợ tính tròn là 52.499.000 đồng; tiền lãi từ ngày 09/12/2018 đến 10/6/2019 là 05%/06 tháng x 52.499.000 đồng = 2.624.000 đồng.

Bị đơn bà Nguyễn Thị T trình bày:

Thừa nhận có mua hàng của chị Thu Ơ và hiện nay còn nợ lại số tiền là 53.499.000 đồng như lời trình bày của chị Thu Ơ. Tuy nhiên, trước đây bà có đặt cọc số tiền 5.000.000 đồng nhưng chị Ơ không ghi nhận, trừ số tiền cọc này thì bà chỉ còn nợ số tiền là 48.499.000 đồng. Mặt khác, do hàng hóa không đảm bảo chất lượng nên bà T yêu cầu cửa hàng bớt 5.000.000 đồng, đồng ý trả 43.499.000 đồng, trả dần mỗi tháng 5.000.000 đồng.

Bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện T đã quyết định:

1/ Chấp nhận yêu cầu của bà Lý Thị Thu Ơ - Chủ Cửa hàng vật liệu xây dựng, trang trí nội thất Ba Sanh đối với bà Nguyễn Thị T.

2/ Buộc bà Nguyễn Thị T phải có trách nhiệm trả cho bà Lý Thị Thu Ơ - Chủ Cửa hàng vật liệu xây dựng, trang trí nội thất Ba Sanh số tiền gốc là 52.499.000 đồng và lãi là 2.624.000 đồng; tổng cộng là 55.123.000đ (Năm mươi lăm triệu một trăm hai mươi ba nghìn đồng).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

3/ Về án phí:

Bà Nguyễn Thị T phải nộp 2.756.000 đồng (Hai triệu bảy trăm năm mươi sáu nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Bà Lý Thị Thu Ơ được nhận lại 1.764.000 đồng (Một triệu bảy trăm sáu mươi bốn nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0005551, quyển số 112 ngày 21/3/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.

Ngoài ra bản án còn tuyên về quyền và thời hạn kháng cáo của các đương sự, quyền và nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải thi hành án, thời hiệu thi hành án.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 17 tháng 6 năm 2019, bà Nguyễn Thị T là bị đơn kháng cáo đối với Bản án sơ thẩm số 20/2019/DS-ST ngày 10 tháng 6 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện T, không thống nhất với quyết định của bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp sửa án sơ thẩm, không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của chị Lý Thị Thu Ơ.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, không thỏa thuận được với bị đơn về việc giải quyết vụ án.

Bị đơn giữ nguyên kháng cáo, không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, phát biểu của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị T đúng về hình thức, nội dung và thời hạn theo quy định tại các Điều 272, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: Chị Lý Thị Thu Ơ có bán vật liệu xây dựng, đồ trang trí nội thất cho bà Nguyễn Thị T tổng cộng thành tiền là 133.499.500 đồng, bà T có đặt cọc và trả nhiều lần còn nợ lại 53.499.500 đồng. Nay chị Thu Ơ yêu cầu bà T trả vì đã quá hạn thỏa thuận trước đây.

[3] Xét việc bà T kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của chị Lý Thị Thu Ơ, thống nhất trả cho chị Thu Ơ 43.499.000 đồng và trả dần mỗi tháng 5.000.000 đồng. Xét thấy, việc mua bán giữa chị Thu Ơ và bà T có hóa đơn chứng từ thể hiện như lời trình bày của chị Thu Ơ, bà T có trả cho chị Thu Ơ nhiều lần và hai bên cũng thừa nhận hiện bà Tt còn nợ chị Thu Ơ 53.499.500 đồng, nhưng bà T trình bày là chưa trừ khoản tiền đã đặt cọc trước đây là 5.000.000 đồng nhưng không đưa ra được chứng cứ. Tại biên bản lấy lời khai ngày 16/5/2018 bà T trình bày số tiền đặt cọc 5.000.000 đồng là tháng 4 năm 2018 âm lịch, trước ngày bà T ký xác nhận của hóa đơn ngày 24/9/2018 với chị Thu Ơ, trong hóa đơn này có trừ hai khoản tiền cọc là 10.000.000 đồng ngày 26/5/2018 và 50.000.000 đồng ngày 31/8/2018, nếu còn khoản tiền cọc 5.000.000 đồng này thì bà T phải thông báo với chị Thu Ơ biết để trừ trước khi ký xác nhận. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận lời trình bày này là phù hợp.

Việc bà T yêu cầu giảm 5.000.000 đồng vì hàng hóa không đảm bảo chất lượng, nhận thấy hàng hóa được trưng bày sẵn, khi mua bà T đã xem hàng và đồng ý đã nhận hàng, ký xác nhận, việc giao dịch mua bán đã hoàn thành. Mặt khác, tại biên bản hòa giải của ấp C thì chị Thu Ơ đồng ý giảm cho bà T 1.000.000 đồng, tại phiên tòa hôm nay chị Thu Ơ cũng thống nhất giảm theo như hòa giải trước đây vì hàng hóa trưng bày sẵn, lỗi của sản phẩm là lỗi nhỏ không làm giảm giá trị của sản phẩm, chị Thu Ơ yêu cầu bà Tuyết trả 52.499.000 đồng, là có lợi cho bà T.

[4] Đối với phần lãi: Bà T cho rằng việc chậm trả nợ là do hàng hóa không đảm bảo chất lượng, khi mua bán hai bên không thỏa thuận về lãi chậm trả, nên không đồng ý chịu lãi là không có căn cứ. Vì giữa bà T và chị Thu Ơ có thỏa thuận khi xây nhà xong thì trả đủ tiền, đến ngày 08/12/2018 bà T đã xây nhà xong nhưng chưa thanh toán hết nợ là vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Chị Thu Ơ yêu cầu tính lãi từ ngày 09/12/2018 đến ngày xét xử sơ thẩm của số tiền còn nợ 52.499.000 đồng theo mức lãi suất 10%/năm là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 357, khoản 3 Điều 440 Bộ luật dân sự 2015.

[5] Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp, phát biểu việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, những người tham gia tố tụng chấp hành tốt quy định của pháp luật và đề xuất hướng giải quyết không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị T. Xét thấy, đề nghị của Viện kiểm sát là có cơ sở chấp nhận.

Từ những phân tích trên xét thấy bản án sơ thẩm xét xử là có căn cứ, Hội đồng xét xử, không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị T.

Các phần còn lại của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Do không chấp nhận kháng cáo của bà T nên bà T phải chịu tiền án phí dân sự phúc thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 148, khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị T.

2. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2019/DS-ST ngày 10/6/2019 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

- Chấp nhận yêu cầu của chị Lý Thị Thu Ơ - Chủ Cửa hàng vật liệu xây dựng, trang trí nội thất Ba Sanh đối với bà Nguyễn Thị T.

- Buộc bà Nguyễn Thị T trả cho chị Lý Thị Thu Ơ - Chủ cửa hàng vật liệu xây dựng, trang trí nội thất Ba Sanh số tiền là 55.123.000đ (Năm mươi lăm triệu một trăm hai mươi ba nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của chị Thu Ơ, mà bà T chưa thi hành xong các khoản tiền phải trả cho chị Thu Ơ, thì hàng tháng bà T còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất bằng 50% mức lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015, cho đến khi thi hành án xong.

3. Về án phí:

Bà Nguyễn Thị T phải chịu 2.756.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Bà Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự phúc thẩm, số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm là 300.000 đồng theo biên lai số 0000507, ngày 18/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T được trừ vào tiền án phí phúc thẩm.

Trả lại cho chị Lý Thị Thu Ơ số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.764.000 đồng theo biên lai số 0005551, ngày 21/3/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

305
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 279/2019/DS-PT ngày 05/09/2019 về tranh chấp hợp đồng dân sự mua bán hàng hóa

Số hiệu:279/2019/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 05/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;