TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 278/2019/HS-PT NGÀY 11/04/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 11 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm đã thụ lý số 181/2019/TLPT-HS ngày 26/02/2019 đối với bị cáo: LHS do có kháng cáo của bị cáo LHS đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 234/2018/HS-ST ngày 30/10/2018 của Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội:
* Bị cáo có kháng cáo: LHS, sinh ngày 25/6/1999, tại Hà Nội; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 1ABC, phường ĐV, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: sinh viên; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lê Hồng C; con bà: Phạm Thị D; Chưa có vợ, con; Danh chỉ bản số: 293 lập ngày 04/6//2018 tại Công an quận Cầu Giấy; Tiền án: không; Tiền sự: không; Bị bắt quả tang và tạm giữ từ ngày 01/6/2018 đến này 08/6/2018; Hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.
Trong vụ án này còn có bị cáo Lương Nhật Q không có kháng cáo, không bị kháng nghị.
*Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
- Ông Lê Hồng C, sinh năm 1966; HKTT: 123 đường PKK, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt do Tòa án không triệu tập.
- Anh Lê Xuân H, sinh năm1994; HKTT: 132 phường TV, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội; vắng mặt do Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 01 tháng 06 năm 2018, Tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội đang làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa Siêu thị Vinmart (đường Trần Đăng Ninh, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội) phát hiện LHS điều khiển xe máy Honda Wave màu đen, BKS: 36B6 - 216.18 chở Nguyễn Thị Tuyết Vân có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, Công an thu giữ trong túi đeo bên người của S 01 túi nilon màu đỏ bên trong có 14 túi nilon trắng chứa thảo mộc khô và 01 điện thoại di động OPPO màu trắng sim số: 0941266296, 01 xe máy Honda Wave màu đỏ BKS: 36 B6- 216.18.
S khai 14 túi thảo mộc khô bị thu giữ trên là cần sa, S mang đi bán nhưng chưa kịp bán thì bị bắt.
Cùng thời điểm, lực lượng Công an đã kiểm tra hành chính đối với Lê Xuân Hưng, thu giữ của Hưng số tiền 1.040.000 đồng và 01 chiếc điện thoại di động Samsung sim số 0979620093. Hưng khai số tiền trên Hưng mang theo để mua cần sa nhưng chưa kịp mua thì bị bắt giữ. Tổ công tác đã lập biên bản thu giữ niêm phong tang vật và đưa các đối tượng về trụ sở làm việc.
Khám xét nơi ở của LHS tại 33 ngách 82/72 phố TTT, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, Cơ quan điều tra không thu giữ được gì liên quan đến vụ án.
Tại Kết luận giám định số 5169/KLGĐ-PC54 ngày 8/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội kết luận: Thảo mộc khô bên trong 14 (mười bốn) túi nilon thu giữ của LHS đều là cần sa, tổng khối lượng: 65,670 gam.
Tại Cơ quan điều tra, LHS khai nhận 14 túi ma túy cần sa bị thu giữ trên là của Lương Nhật Q ở thị trấn QX, huyện QX, tỉnh Thanh Hóa đưa cho S vào khoảng 9h30 phút ngày 01/6/2018 để mang đi bán với giá 200.000 đồng/túi, nhưng S sẽ bán cho khách với giá 240.000 đồng, S được hưởng 40.000 đồng. Đây là lần đầu tiên, S đi bán ma túy cho Q.
Đến 14 giờ cùng ngày, Tổ công tác dẫn giải S đến phố Cao Bá Quát, phường Điện Biên, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, tại đây S xác định được đối tượng Lương Nhật Q và chỉ cho Công an để bắt giữ Q. Qua kiểm tra, Công an phát hiện thu giữ trong tay trái Q đang cầm 01 túi nilon màu đỏ, bên trong có 16 (mười sáu) túi nilon trắng chứa thảo mộc khô. Q khai số thảo mộc khô trên đều là ma túy cần sa. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản thu giữ niêm phong số tang vật trên, đưa Q về trụ sở Cơ quan Công an để làm rõ. Ngoài ra, Công an còn thu giữ của Q: 01 điện thoại di động Iphone 8 plus, màu đỏ, số sim: 01695010858.
Khám xét nơi ở của Lương Nhật Q tại địa chỉ 12A Cao Bá Quát - phường, Điện Biên, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, không thu giữ đồ vật tài sản gì liên quan đến vụ án.
Tại Kết luận giám định số 5163/KLGĐ-PC54 ngày 8/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự công an thành phố Hà Nội kết luận: Thảo mộc khô bên trong 16 (mười sáu) túi nilon thu giữ của Lương Nhật Q đều là Cần sa, tổng khối lượng: 183,620 gam.
Tại Cơ quan điều tra Lương Nhật Q khai nhận: Ngày 28/5/2018, qua mạng xã hội Instagram có tên tài khoản là "Kelly", Q đã mua của đối tượng không quen biết ở khu vực phố An Trạch 1.700.000 đồng tiền ma túy cần sa. Mua xong Q mang túi cần sa về phòng trọ của mình tại 12A phố Cao Bá Quát, phường Điện Biên, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội chia thành 30 (ba mươi) túi nhỏ mục đích để bán kiếm lời. Đến khoảng 20h30' ngày 31/5/2018, Q hẹn gặp LHS tại một quán nước ở khu vực Ngã tư Sở và nói chuyện với S về việc bán cần sa. Cả hai thống nhất Q sẽ là người mua cần sa về chia nhỏ vào các túi nilon, giao dịch và nhận cuộc gọi đặt mua cần sa của khách qua tài khoản Instagram hoặc điện thoại của Q, sau đó Q sẽ đưa cần sa cho S để S mang đi bán cho khách, mỗi túi cần sa Q sẽ bán với giá 200.000 đồng, S sẽ lấy thêm 40.000 đồng tiền công. Đến khoảng 9h ngày 01/6/2018, Q gọi điện hẹn gặp S tại số 10 Cao Bá Quát, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Đến khoảng 9h30' cùng ngày, S đến địa điểm hẹn trên cùng với Nguyễn Thị Tuyết Vân. Tại đây, Q đưa cho S 01 túi nilon đỏ bên trong có 14 (mười bốn) túi nilon chứa ma túy cần sa để S mang đi bán. Đến khoảng 10h cùng ngày, Q nhận được cuộc gọi của một nam thanh niên từ số 0979620093 hỏi mua 06 (sáu) túi cần sa Q báo với giá 1.000.000 đồng, hẹn giao dịch tại khu vực Chùa Hà trước cửa Siêu thị Vinmart đường Trần Đăng Ninh, quận Cầu Giấy. Sau đó, Q gửi số điện thoại và địa chỉ của khách mua cho S để S liên lạc mua bán cần sa. Đến khoảng 14h30' cùng ngày, khi Q đang đi ở trước số 1 Cao Bá Quát thì bị lực lượng công an kiểm tra bắt giữ, thu giữ toàn bộ số tang vật như đã nêu trên. Đây là lần đầu tiên Q nhờ S đi bán ma túy.
Xét nghiệm ma túy trong nước tiểu của LHS, Lương Nhật Q cho kết quả âm tính với ma túy.
Lê Xuân Hưng khai: Qua bạn bè giới thiệu, Hưng được cho địa chỉ mạng xã hội Instagram - CanabisVietnam và số điện thoại 01695010858 của một người bán ma túy cần sa (Hưng không biết tên tuổi địa chỉ cụ thể của anh ta). Khoảng 10h ngày 1/6/2018 do có nhu cầu sử dụng ma túy cần sa nên Hưng đã gọi điện từ số 0979620093 của mình đến số điện thoại của người bán cần sa trên và hỏi mua của anh ta 06 túi ma túy cần sa, anh ta đồng ý và báo giá 1.000.000 đồng. Hưng hẹn anh ta mang cần sa đến trước Siêu thị Vinmart trên đường Trần Đăng Ninh, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội để giao dịch, anh ta bảo sẽ lấy thêm 40.000 đồng tiền công, Hưng đồng ý. Đến khoảng 10h30' cùng ngày thì có số điện thoại 0941266296 gọi vào điện thoại của Hưng hẹn đến trước cửa Siêu thị Vinmart để giao nhận mua bán ma túy. Hưng đi đến trước Siêu thị Vinmart Trần Đăng Ninh gặp LHS đi xe máy BKS: 36B6 -216.18 chở Nguyễn Thị Tuyết Vân đến. Khi S vừa lấy cần sa ra định bán cho Hưng thì bị Công an kiểm tra bắt giữ và đưa về trụ sở làm việc.
Lời khai của LHS phù hợp với lời khai của Lương Nhật Q, Lê Xuân Hưng, tang vật đã thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. S khai: S nhận ma túy cần sa từ Q mang theo người đi bán, S không nói cho Vân biết.
Đối với Lê Xuân H là đối tượng nghiện ma túy, ngày 01/6/2018, Hưng chưa kịp mua ma túy của S thì bị bắt giữ nên không có căn cứ để xử lý. Xét nghiệm ma túy trong nước tiểu của Lê Xuân Hưng cho kết quả dương tính với ma túy nên Cơ quan điều tra đã ra thông báo về địa phương về đối tượng nghiện ma túy để quản lý giáo dục.
Đối với Nguyễn Thị Tuyết V: tài liệu điều tra xác định việc S cất giấu ma túy cần sa trong túi xách mang đi bán Vân hoàn toàn không biết nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý. Đối với đối tượng bán ma túy cho Q, do Q khai không biết nhân thân lai lịch nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để tiếp tục điều tra, xử lý.
Qua điều tra, xác định chiếc điện thoại OPPO màu trắng và điện thoại Iphone 8 Plus thu giữ của S và Q là điện thoại S và Q liên lạc bán ma túy. Số tiền 1.040.000 đồng và 01 điện thoại Sam Sung thu giữ của Lê Xuân Hưng là dùng liên lạc và để mua ma túy.
Chiếc xe máy Honda Wave màu đỏ, BKS 36 B6- 216.18 thu giữ của S, qua điều tra xác định là tài sản của ông Lê Hồng C (là bố đẻ của S). Khi S sử dụng xe đi bán ma túy ông C không biết nên Cơ quan điều tra đã trao trả chiếc xe máy trên cho ông C. Ông C đã nhận lại xe không ý kiến gì.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 234/2018/HSST ngày 30/10/2018 của Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy đã quyết định: Tuyên bố bị cáo LHS phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy; Áp dụng: khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo LHS 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời hạn bị cáo đã bị tạm giữ từ ngày 01/6/2018 đến ngày 10/6/2018. Bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt đối với bị cáo Lương Nhật Q, xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 07/11/2018, bị cáo LHS có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo và giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo Lương Nhật Q không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị Bản án.
* Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo S giữ nguyên kháng cáo, khai như đã khai tại phiên tòa sơ thẩm và lời khai như đã khai tại Cơ quan điều tra. Bị cáo công nhận việc truy tố, xét xử như ở cấp sơ thẩm là đúng người, đúng tội, bị cáo không bị oan, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Về tố tụng: Bị cáo là người có quyền kháng cáo, đơn kháng cáo của bị cáo được làm trong thời hạn luật định, phù hợp với quy định của pháp luật về hình thức, nội dung nên kháng cáo của bị cáo là hợp lệ, cần được xem xét, giải quyết theo thủ tục phúc thẩm. Về nội dung: Bản án sơ thẩm kết án bị cáo về tội Mua bán trái phép chất ma túy là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã dẫn Công an đi xác định và bắt giữ đối tượng Lương Nhật Q, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo xuất trình các tài liệu thể hiện bị cáo có ông bà nội, ông bà ngoại đã tham gia cách mạng được tặng thưởng huân huy chương, trong đó ông ngoại là thương binh; bố đẻ nhiều năm công tác trong ngành giáo dục có nhiều thành tích trong công tác. Do đó có thể xem xét chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo yên tâm cải tạo. Đề nghị Hội đồng xét xử, áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo từ 18 đến 22 tháng tù. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật nên không xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1].Về tố tụng: Kháng cáo của bị cáo được làm trong thời hạn luật định, bảo đảm về chủ thể kháng cáo theo Điều 331, 331 Bộ luật Tố tụng hình sự; hình thức và nội dung đơn kháng cáo phù hợp với quy định của pháp luật. Do vậy, kháng cáo của bị cáo là hợp lệ, được Hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2].Về nội dung:
[2.1] Về tội danh và điều luật áp dụng:
Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm, phù hợp với lời khai của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm và lời khai của bị cáo Lương Nhật Q, lời khai người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Lê Xuân H, người làm chứng Nguyễn Thị Tuyết V trong quá trình điều tra; phù hợp kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 01/6/2018 tại trước cửa Siêu thị Vinmart trên đường Trần Đăng Ninh thuộc phường Dịch Vọng Hậu, quận cầu Giấy, thành phố Hà Nội, LHS đang có hành vi mang theo trên người 14 túi nilon bên trong có chứa 65,670 gam thảo mộc khô là cần sa với mục đích để bán trái phép cho Lê Xuân H thì bị lực lượng Công an quận Cầu Giấy bắt quả tang.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm luật hình sự, xâm phạm trật tự quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây lo lắng trong nhân dân. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý mang theo số ma túy trên với mục đích để bán trái phép cho người khác nhằm hưởng lợi bất chính. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo về tội Mua bán trái phép chất ma túy là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2.2] Xét kháng cáo của bị cáo:
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo có kháng cáo xin được hưởng án treo và xin được giảm nhẹ hình phạt, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét thấy:
Khi xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, lần đầu bị đưa ra truy tố, xét xử; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải để áp dụng điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo và xử phạt bị cáo 24 tháng tù.
Tại cấp phúc thẩm, Hội đồng xét xử có xem xét thêm: Trong quá trình điều tra bị cáo đã tích cực hợp tác với Cơ quan điều tra, khai báo ra người bán ma túy là Lương Nhật Q và dẫn giải Công an đi bắt đối tượng Q, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm t khoản 1 Bộ luật hình sự năm 2015 mà cấp sơ thẩm chưa xem xét. Đồng thời, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo có xuất trình một số tài liệu thể hiện bị cáo có ông bà nội, ông bà ngoại đã tham gia cách mạng được tặng thưởng nhiều huân huy chương, trong đó ông ngoại là thương binh; bố bị cáo nhiều năm công tác trong ngành giáo dục, đã có nhiều thành tích trong công tác, đây là các tình tiết giảm nhẹ mới, có thể áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, giảm nhẹ thêm cho bị cáo một phần trách nhiệm hình sự.
Do bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như trên, nên có thể áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cũng đủ tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Vì vậy, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, giảm hình phạt cho bị cáo để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật và tạo điều kiện cho bị cáo tích cực cải tạo trở thành người công dân tốt cho xã hội. Bị cáo phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy là tội rất nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự xã hội nên Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo.
[2.3] Về các nội dung khác:
Về án phí: Kháng cáo của bị cáo được chấp nhận nên bị cáo phải không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định tại Điều 343 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Áp dụng: điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
- Chấp nhận kháng cáo của bị cáo LHS về việc xin giảm nhẹ hình phạt; sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 234/2018/ HSST ngày 30/10/2018 của Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội về phần hình phạt đối với bị cáo LHS, cụ thể như sau:
- Áp dụng: khoản 1 Điều 251; các điểm s và t khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
- Xử phạt bị cáo: LHS 16 (mười sáu) tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời hạn bị cáo đã bị tạm giữ từ ngày 01/6/2018 đến ngày 08/6/2018.
2. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm về phần trách nhiệm hình sự của bị cáo Lương Nhật Q, xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
3. Về án phí: Bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 278/2019/HS-PT ngày 11/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 278/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/04/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về