TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TIỀN GIANG
BẢN ÁN 274/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 27 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 819/2020/TLST- HNGĐ ngày 01/12/2020 về việc tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 41/2021/QĐST-HNGĐ ngày 15/4/2021 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Nguyễn Thị Kim O, sinh năm 1983; Địa chỉ: ấp H, xã DĐ, huyện CT, tỉnh Tiền Giang.
2. Bị đơn: Nguyễn Thành S, sinh năm 1978;
Địa chỉ: ấp H, xã DĐ, huyện CT, tỉnh Tiền Giang.
(chị O có mặt, anh S vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện về việc xin ly hôn, bản tự khai cùng ngày 18/11/2020 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn Nguyễn Thị Kim O trình bày:
Chị và anh S quen biết tình cảm khoảng 4 đến 5 năm thì làm đám cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Dưỡng Điềm, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang, theo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 40, quyển số 01/2004 ngày 09/6/2004.
Sau khi cưới, chị về làm dâu và sống cùng anh S bên gia đình chồng được khoảng 04 năm, sau đó cả hai vợ chồng ra riêng, cất nhà cùng ấp H, xã DĐ, huyện CT, tỉnh Tiền Giang, gần nhà cha mẹ chồng khoảng 500m. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2010 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân liên quan đến chuyện tiền bạc. Anh S có việc làm và thu nhập ổn định, nhưng không phụ tiền lo cho sinh hoạt chung của gia đình, chị tìm hiểu nguyên nhân được biết anh mê cá độ bóng đá, gây nợ, mẹ chồng chị phải bán đất để trả nợ cho anh S. Nhiều lần chị có khuyên anh S sửa đổi, nhưng anh S không nghe lời chị khuyên. Tình trạng này kéo dài khoảng 07 năm, từ đó chị buồn, bất mãn, tình cảm vợ chồng ngày càng nhạt dần. Hiện tại, chị không còn thương anh S. Mặc dù sống chung nhà, nhưng mọi mặt sinh hoạt anh chị đã tách bạch từ tháng 01/2020 âm lịch cho đến nay, đến tháng 11/2020 chị cùng con gái về bên nhà cha mẹ ruột sinh sống. Nay chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh S.
- Về con chung: Có 02 con chung, tên Nguyễn Thái Minh N, sinh ngày 18/4/2006 và Nguyễn Thái Minh L, sinh ngày 08/5/2010. Hiện tại cháu L đang sống với anh S, cháu N đang sống với chị. Khi ly hôn, chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc hai con chung đến tuổi trưởng thành, không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con.
Sau khi ly hôn, anh S được quyền thăm nom, chăm sóc con chung theo luật định mà không ai được cản trở.
- Về nợ chung: Không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về tài sản chung: Trong thời gian chung sống, anh chị có cùng tạo dựng 01 căn nhà, được xây nhờ trên đất do má chồng chị là bà Nguyễn Thị Mẫn đứng tên trên GCNQSDĐ. Nay khi ly hôn, vợ chồng chị tự thỏa thuận về tài sản chung này, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Tại bản tự khai ngày 08/12/2020 và biên bản hòa giải ngày 18/12/2020, anh Nguyễn Thành S trình bày:
Thống nhất với lời trình bày của O về thời gian chung sống, kết hôn. Về nguyên nhân mâu thuẫn, anh S thừa nhận đúng như lời chị O trình bày. Anh mê cờ bạc, cá độ bóng đá gây nợ, nhưng sự việc phát sinh từ năm 2017 cho đến nay, không phải năm 2010 như chị O trình bày. Anh gây nợ, mẹ ruột anh có bán đất trả nợ dùm, anh không để ảnh hưởng đến chị O và các con. Việc vợ chồng sống chung nhà nhưng ly thân, độc lập về các mặt chỉ diễn ra từ ngày 23/4/2020 âm lịch cho đến nay.
Hiện tại, anh còn thương vợ, muốn các con có đủ cha, đủ mẹ để nuôi dạy tốt hơn, do đó anh S mong chị O và Tòa án cho anh thêm thời gian khoảng 03 tháng để anh tìm cách giải quyết mâu thuẫn, hàn gắn tình cảm vợ chồng với chị O. Nếu sau thời gian này, anh không thể níu kéo tình cảm của chị O thì anh đồng ý ký đơn ly hôn, để chị O được như ý và không cực khổ nhiều lần lên Tòa án.
Về con chung: Có 02 con chung như chị O trình bày. Trong trường hợp Tòa án giải quyết cho anh chị ly hôn, việc ai nuôi con chung thì Tòa án cứ căn cứ theo nguyện vọng của các con mà giải quyết, giao cho cha hoặc giao cho mẹ. Nếu các con muốn ở với anh thì anh không yêu cầu chị O cấp dưỡng nuôi con và ngược lại nhưng anh sẽ lo cho các con trong khả năng của anh.
- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về tài sản chung: Thống nhất với lời trình bày của chị O, anh chị sẽ tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa hôm nay:
Chị O thay đổi yêu cầu khởi kiện về con chung, tài sản chung. Cụ thể, khi ly hôn chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng Nguyễn Thái Minh N đến tuổi trưởng thành, chị không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi N. Chị đồng ý để anh S trực tiếp nuôi dưỡng Nguyễn Thái Minh L đến tuổi trưởng thành, chị không cấp dưỡng nuôi L. Chị trình bày vợ chồng không có tài sản chung.
Bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang trình bày ý kiến: Về phần thủ tục, kể từ thời điểm thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã chấp hành và tuân thủ đúng quy định pháp luật tố tụng dân sự.
Bị đơn đã không thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ mà pháp luật đã quy định đối với bị đơn.
Về việc giải quyết vụ án, trên cơ sở phân tích các quy định pháp luật, đại diện Viện kiểm sát đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào lời trình bày của nguyên đơn tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần để tham dự phiên tòa nhưng đều vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào Khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xử vắng mặt bị đơn.
Đối với việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của chị O, xét thấy là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định tại Khoản 1 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[2] Về quan hệ tranh chấp: Vụ án có quan hệ tranh chấp “Ly hôn”.
[3] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Kim O và anh Nguyễn Thành S xác lập quan hệ hôn nhân hợp pháp, được Ủy ban nhân dân xã Dưỡng Điềm, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn số 40, quyển số 01/2004 ngày 09/6/2004.
Tại phiên tòa, chị O trình bày nhiều vấn đề để cho rằng giữa hai vợ chồng đã có nhiều mâu thuẫn, dẫn đến rạn nứt tình cảm khoảng 07 năm nay, nguyên nhân chính là do anh S ham mê cờ bạc, gây nợ nần, không cùng chị lo cho gia đình và các con chung đã nhiều năm. Nhiều lần vợ chồng đã tìm cách giải quyết mâu thuẫn, để hàn gắn tình cảm nhưng không được. Anh chị đã ly thân khoảng 01 năm nay. Đến nay, chị O vẫn kiên quyết ly hôn với anh S.
Tại biên bản hòa giải ngày 18/12/2020, anh S thừa nhận nguyên nhân dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn như lời chị O trình bày, anh mong chị O cho thêm thời gian 03 tháng để tìm cách hàn gắn tình cảm với chị, nếu không thể được anh sẽ đồng ý ly hôn. Đến nay đã quá thời hạn 03 tháng, nhưng chị O vẫn kiên quyết muốn được ly hôn với anh S.
Xét lời trình bày của chị O về nguyên nhân mâu thuẫn hoàn toàn phù hợp với nội dung biên bản xác minh ngày 10/3/2021 (bút lục 36) và lời khai của anh S tại phiên hòa giải ngày 18/12/2020 (bút lục 30 – 31). Mâu thuẫn vợ chồng giữa anh chị đã kéo dài nhiều năm, nhưng đôi bên không thể tìm cách giải quyết. Đối với anh S, đến nay đã hơn 03 tháng nhưng anh cũng không thể tác động để chị O rút lại yêu cầu khởi kiện đối với anh. Hơn nữa, anh cũng không có thiện chí hàn gắn tình cảm với chị, thể hiện qua việc nhiều lần anh vắng mặt không có lý do khi được Tòa án triệu tập để tiếp tục hòa giải, công khai chứng cứ và xét xử. Từ đó cho thấy, mâu thuẫn của anh chị đã ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì lẽ đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, xét yêu cầu xin ly hôn anh S của chị O là có cơ sở, nên được chấp nhận.
[4] Về con chung: Anh chị có 02 con chung tên Nguyễn Thái Minh N, sinh ngày 18/4/2006 và Nguyễn Thái Minh L, sinh ngày 08/5/2010. Trên cơ sở nguyện vọng của các con chung (bút lục số 16, 17) và xét thấy anh S, chị O đều có công việc và thu nhập ổn định ( bút lục 36, bút lục 18 - 28), nên Hội đồng xét xử chấp nhận để chị O được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N đến tuổi trưởng thành, anh S được trực tiếp nuôi dưỡng cháu L đến tuổi trưởng thành. Hiện tại, các bên tạm thời chưa thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, do bên còn lại không có yêu cầu.
Sau khi ly hôn, căn cứ vào quy định tại Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình, chị O có quyền cũng như có nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc cháu L theo luật định, mà không ai được cản trở; anh S có quyền cũng như có nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc cháu N theo luật định, mà không ai được cản trở.
[5] Về tài sản chung: Tại phiên tòa chị O trình bày không có. Trong quá trình hòa giải anh S trình bày để anh chị tự thỏa thuận việc phân chia tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, nếu sau này có tranh chấp, các bên có quyền khởi kiện bằng vụ kiện khác.
[6] Về nợ chung: Các bên trình bày không có, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[7] Xét lời đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang phù hợp với những nhận định nêu trên của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[8] Về án phí: Chị O phải chịu án phí theo quy định tại điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ Khoản 1 Điều 244, Khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, - Áp dụng Khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Áp dụng điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Xử :
1/ Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Kim O.
- Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Kim O được ly hôn với anh Nguyễn Thành S.
- Về con chung:
Giao con chung Nguyễn Thái Minh N, sinh ngày 18/4/2006 cho chị O tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc đến tuổi trưởng thành. Anh S tạm thời chưa thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung N. Sau khi ly hôn, anh S được quyền cũng như có nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung Nguyệt theo luật định, mà không ai được cản trở.
Giao con chung Nguyễn Thái Minh L, sinh ngày 08/5/2010 cho anh S tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc đến tuổi trưởng thành. Chị O tạm thời chưa thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung L. Sau khi ly hôn, chị O được quyền cũng như có nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung L theo luật định, mà không ai được cản trở.
2/ Về án phí: Chị O phải chịu 300.000đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí mà chị đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003594 ngày 30/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang. Như vậy, chị O đã nộp xong án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
3/ Quyền kháng cáo: Chị O có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Anh S có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 274/2021/HNGĐ-ST ngày 27/04/2021 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 274/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tiền Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/04/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về