Bản án 273/2020/HNGĐ-ST ngày 17/09/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 273/2020/HNGĐ-ST NGÀY 17/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG

Ngày 17 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 465/2020/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 6 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 224/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Kiều D, sinh năm 1993 (xin xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Nguyễn Vũ L (Nguyễn Vủ L), sinh năm 1991 (vắng mặt).

Cùng địa chỉ: Khóm 9, thị trấn T, huyện T, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 22 tháng 6 năm 2020 và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ thể hiện, nguyên đơn chị Trần Kiều D trình bày yêu cầu:

- Về hôn nhân: Qua thời gian quen biết và tìm hiểu nhau nên chị Trần Kiều D và anh Nguyễn Vũ L (Vủ L) kết hôn với nhau vào năm 2011, hôn nhân tự nguyện, có tổ chức đám cưới theo phong tục địa phương nhưng đến năm 2017 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Trần Văn Thời, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Khi mới kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc nhưng dần dần về sau vợ chồng thường xuyên cự cãi nhau, do bất đồng quan điểm và anh L không quan tâm vợ con, không chăm lo cho gia đình, anh L đi làm có bao nhiêu tiền là tiêu xài cá nhân hết. Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng không thể khắc phục được, hôn nhân không còn hành phúc nên chị D yêu cầu ly hôn với anh L.

- Về con chung: Có 02 người con tên Nguyễn Bảo T, sinh ngày 23/5/2012 (nữ), Nguyễn Tố T, sinh ngày 02/7/2017 (nữ), hiện sống chung với chị D. Khi ly hôn chị D yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc 02 người con.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị D yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

 * Đối với bị đơn anh Nguyễn Vũ L: Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, đã hết thời hạn theo quy định pháp luật mà anh L không có văn bản trình bày ý kiến của mình về yêu cầu xin ly hôn của chị D. Đồng thời, Tòa án cũng đã tống đạt hợp lệ 02 lần thông báo về phiên họp, kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh L không tham gia nên Tòa án không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa: Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt nên không có ý kiến khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Về thủ tục tố tụng:

Nguyên đơn chị Trần Kiều D có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, yêu cầu của đương sự phù hợp với khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên được chấp nhận.

Bị đơn anh Nguyễn Vũ L đã được Tòa án triệu tập xét xử hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với anh L là có căn cứ.

Về NỘI DUNG VỤ ÁN

[1] Về hôn nhân: Chị Trần Kiều D và anh Nguyễn Vũ L có thời gian quen biết và tìm hiểu nhau nên kết hôn với nhau từ năm 2011, hôn nhân tự nguyện, có tổ chức đám cưới theo phong tục địa phương nhưng đến năm 2017 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Trần Văn Thời, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau theo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 70 ngày 24 tháng 8 năm 2017. Vì vậy, quan hệ hôn nhân của chị D và anh L được pháp luật công nhận là vợ chồng kể từ thời điểm đăng ký.

Xét thấy, chị D xin ly hôn là vì trong quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên cự cãi nhau, do bất đồng quan điểm và anh L không quan tâm vợ con, không chăm lo cho gia đình, anh L đi làm có bao nhiêu tiền là tiêu xài cá nhân hết, hôn nhân không còn hành phúc nên chị D yêu cầu ly hôn với anh L. Mặt khác, anh L đã được Tòa án thông báo hòa giải hợp lệ đến lần thứ hai, nhưng anh L vẫn vắng mặt, từ đó cho thấy anh L không có thiện chí mong muốn hàn gắn mối quan hệ hôn nhân giữa chị D với anh L. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa chị D với anh L đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể duy trì, mục đích hôn nhân không đạt được nếu duy trì hôn nhân cũng không đem lại hạnh phúc nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị D. Chị D được ly hôn với anh L theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2] Về nuôi con chung: Chị D xác định có 02 người con tên Nguyễn Bảo T, sinh ngày 23/5/2012 (nữ), Nguyễn Tố T, sinh ngày 02/7/2017 (nữ), hiện sống chung với chị D. Khi ly hôn chị D yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc 02 người con. Theo quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình thì con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con, Tòa án đã làm việc trực tiếp với cháu Nguyễn Bảo T thì cháu có nguyện vọng sống chung với mẹ nên Hội đồng xét xử tôn trọng nguyện vọng của cháu, đối với cháu Nguyễn Tố T thì từ khi chị D và anh L sống ly thân cho đến nay thì các cháu vẫn sống chung với chị D, cuộc sống của các cháu đã được ổn định nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị D, giao con tên Nguyễn Bảo T, sinh ngày 23/5/2012 (nữ) và Nguyễn Tố T, sinh ngày 02/7/2017 (nữ) cho chị D được tiếp tục nuôi dưỡng và chăm sóc.

Anh L không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con mà không ai được cản trở. Tuy nhiên, lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó, theo quy định tại khoản 3 Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị D yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật, do anh L vắng mặt nên không có ý kiến. Tại khoản 2 Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Cha mẹ không trực tiếp nuôi con thì có nghĩa vụ cấp dưỡng”, do đó buộc anh L cấp dưỡng nuôi con là phù hợp với quy định của pháp luật.

 Mức cấp dưỡng, chị D không chứng minh được khả năng kinh tế của anh L và yêu cầu cấp dưỡng theo quy định của pháp luật. Theo quy định của pháp luật thì mức cấp dưỡng không thấp hơn ½ mức lương cơ sở (lương cơ sở 1.490.000 đồng/tháng), do đó buộc anh L cấp dưỡng nuôi con 1.000.000 đồng/tháng/01 người con, anh L phải cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng/02 người con, cấp dưỡng hàng tháng, thời gian cấp dưỡng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm cho đến khi các cháu Nguyễn Bảo T, và Nguyễn Tố T tròn 18 tuổi.

Trường hợp anh L chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nói trên, thì anh L còn phải chịu thêm phần lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chậm thực hiện nghĩa vụ.

[4] Về chia tài sản chung và công nợ: Căn cứ vào Điều 5 của Bộ luật Tố tụng dân sự “Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó”, do đương sự không đặt ra yêu cầu nên không xem xét.

[5] Về án phí: Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm không giá ngạch 300.000 đồng, người khởi kiện yêu cầu ly hôn không phụ thuộc vào việc Tòa án có chấp nhận hay không chấp chận cho ly hôn đều phải chịu án phí nên chị D phải chịu nộp 300.000 đồng theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và được khấu trừ tiền tạm ứng án phí đã dự nộp.

Án phí cấp dưỡng định kỳ không giá ngạch 300.000 đồng anh L phải chịu nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[6] Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53, khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 116 và Điều 117 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Trần Kiều D. Chị Trần Kiều D được ly hôn với anh Nguyễn Vũ L (Nguyễn Vủ L).

2. Về nuôi con chung: Giao cho chị Trần Kiều D nuôi dưỡng và chăm sóc con tên Nguyễn Bảo T, sinh ngày 23/5/2012 (nữ) và Nguyễn Tố T, sinh ngày 02/7/2017 (nữ).

Anh L không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con mà không ai được cản trở.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Buộc anh L phải cấp dưỡng cho mỗi người con là 1.000.000 đồng (cấp dưỡng 2.000.000 đồng/tháng/02 người con), cấp dưỡng hàng tháng, thời gian cấp dưỡng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm đến khi các cháu Nguyễn Bảo T, và Nguyễn Tố T tròn 18 tuổi.

Trường hợp anh L chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nói trên, thì anh L còn phải chịu thêm phần lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chậm thực hiện nghĩa vụ.

4. Về chia tài sản chung và nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

5. Về án phí: Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm không có giá ngạch 300.000 đồng, chị D phải chịu nộp án phí 300.000 đồng, chị D có nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003896 ngày 22 tháng 6 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời được chuyển thu, không phải nộp tiếp.

Án phí cấp dưỡng định kỳ không giá ngạch 300.000 đồng anh L phải chịu nộp.

 “Trường hợp quyết định này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự”.

 6. Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; vắng mặt tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 273/2020/HNGĐ-ST ngày 17/09/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung

Số hiệu:273/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;