Bản án 273/2018/HNGĐ-ST ngày 29/11/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẦM DƠI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 273/2018/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 29 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 482/2018/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 9 năm 2018 về việc tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 423/2018/QĐXXST–HNGĐ ngày 05 tháng 11 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Võ Thùy L, sinh năm 1980;

Địa chỉ: Ấp L, xã Q, huyện Đ, tỉnh Cà Mau. (có mặt)

- Bị đơn: Anh Võ Văn Đ, sinh năm 1970;

Địa chỉ: Ấp C, xã Q, huyện Đ, tỉnh Cà Mau. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện ngày 26/9/2018 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Võ Thùy L trình bày:

Về hôn nhân: Chị với anh Võ Văn Đ tự nguyện kết hôn năm 2000, không đăng ký kết hôn. Trong thời gian chung sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn do anh Đ không lo làm ăn, thường xuyên uống rượu, ghen tuông vô cớ dẫn đến có lần đánh chị, sự việc được chính quyền địa phương và thân tộc hai bên gia đình hòa giải nhưng không thành nên vợ chồng đã ly thân từ tháng 4/2018. Nay chị L nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn gắn bó yêu thương nhau, hiện tại mỗi người đã có cuộc sống riêng nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đ.

Về con chung: Chị L xác định vợ chồng có 01 người con chung tên Võ Tuấn K sinh ngày 01/6/2008, hiện do chị đang nuôi dưỡng. Khi ly hôn chị yêu cầu tùy theo nguyện vọng cháu K ở với ai thì người đó nuôi, vấn đề cấp dưỡng cho con không đặt ra.quyết.

Về tài sản: Chị L xác định vợ chồng tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải

Về nợ: Chị L xác định không có nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

- Bị đơn anh Võ Văn Đ trình bày:

Về hôn nhân: Qua phần trình bày của chị L về ngày tháng năm chung sống là đúng, còn việc chị L xác định vợ chồng không đăng ký kết hôn là không đúng mà trên thực tế vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, còn nguyên nhân anh đánh chị L nhiều lần vì chị L có những việc sai trái đối với anh. Qua yêu cầu xin ly hôn của chị L anh không đồng ý mà xin được đoàn tụ để tiếp tục chung sống với nhau lo lắng cho con.

Về con chung: Anh Đ thống nhất theo lời trình bày của chị L. Khi ly hôn tùy theo nguyện vọng cháu K ở với ai thì người đó nuôi dưỡng, vấn đề cấp dưỡng không đặt ra yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản: Anh Đ xác định vợ chồng có tài sản là 01 căn nhà bằng cây gỗ địa phương được vợ chồng xây dựng trên phần đất ông Võ Nguyễn T và bà Nguyễn Thị Th (cha mẹ vợ) và 01 giếng nước tổng giá trị tài sản là 15.000.000 đồng. Trong trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn anh và chị L tự thỏa thuận phân chia, anh nhận giá trị 7.500.000 đồng, giao nhà và giếng nước cho chị L được hưởng, không đặt ra yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án.

Về nợ: Anh Đ xác định không có nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hôn nhân: Chị Võ Thùy L và anh Võ Văn Đ tự nguyện chung sống năm 2000. Chị L xác định vợ chồng không đăng ký kết hôn, trong thời gian chung sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn do anh Đ không lo làm ăn, thường xuyên uống rượu, ghen tuông vô cớ, đánh chị. Tại tòa sơ thẩm chị L xác định tình cảm vợ chồng không còn, hiện tại mỗi người đã có cuộc sống riêng, không ai còn có trách nhiệm với ai nữa, nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đ; đối với anh Đ cho rằng vợ chồng có đăng ký kết hôn, anh thừa nhận trong quá trình chung sống anh có đánh chị L do chị L có những việc sai trái đối với anh, nhưng mâu thuẫn vợ chồngchưa trầm trọng lắm nên anh không đồng ý ly hôn mà xin được đoàn tụ. Hội đồng xét xử xét thấy việc anh  Đ cho rằng vợ chồng có đăng ký kết hôn là không đúng sự thật, bởi lẽ tại Công văn số 236/UBND-TP ngày 06/11/2018 của Ủy ban nhân dân xã Quách Phẩm Bắc (do chị L cung cấp) xác định “Qua kiểm tra tàng thư sổ bộ kết hôn năm 2000 không có trường hợp tên vợ Võ Thùy L sinh năm 1980, chồng Võ Văn Đ sinh năm 1970, cùng thường trú ấp L, xã Q, huyện Đ, tỉnh Cà Mau”, mặt khác anh Đ cũng không cung cấp được Giấy chứng nhận kết hôn như anh đã trình bày. Từ đó có đủ căn cứ xác đinh chị Võ Thùy L và anh Võ Văn Đ không có đăng ký kết hôn theo luật định. Mặc dù, anh chị xác lập mối quan hệ hôn nhân trên tinh thần tự nguyện nhưng do không có đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng”. Căn cứ vào khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử tuyên bố không công nhận chị Võ Thùy L với anh Võ Văn Đ là vợ chồng.

[2] Về con chung: Chị L và anh Đ có 01 người con tên Võ Tuấn K sinh ngày 01/6/2008, hiện đang sống cùng với chị L. Khi ly hôn chị L và anh Đ xác định tùy nguyện vọng của con ở với ai thì người đó nuôi, vấn đề cấp dưỡng cho con không đặt ra. Hội đồng xét xử xét thấy tại biên bản về việc ghi ý kiến của con chung đối với cháu Võ Tuấn K thì cháu K có nguyện vọng sống cùng với mẹ. Do đó, căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 giao cháu K cho chị L nuôi dưỡng là có căn cứ; đối với việc cấp dưỡng cho con, chị L và anh Đ không đặt ra, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về tài sản chung: Chị L và anh Đ xác định tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[4] Về nợ: Chị L và anh Đ xác định anh chị không có nợ ai và không ai nợ lại anh chị, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Án phí: Chị L được miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm (chị L thuộc diện hộ nghèo và có đơn xin miễn án phí).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53; khoản 2 Điều 81 và Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giãm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Không công nhận chị Võ Thùy L và anh Võ Văn Đ là vợ chồng.

2. Về con chung: Giao cháu Võ Tuấn K sinh ngày 01/6/2008 cho chị Võ Thùy L trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; việc cấp dưỡng cho con không đặt ra. Anh Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về quyền kháng cáo: Chị L, anh Đ có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 273/2018/HNGĐ-ST ngày 29/11/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:273/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đầm Dơi - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;