Bản án 272/2019/HSST ngày 23/09/2019 về tội trộm cắp tài sản và tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 272/2019/HSST NGÀY 23/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY 

Ngày 23/09/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 331/2019/HSST ngày 30/08/2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 289/2019/QĐXXST-HS ngày 11/09/2019 đối với:

I. NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI

1. Ngô Hoàng T; Giới tính Nam; Sinh năm 2000, tại thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú số 111, đường X, khu phố Y, phường H, quận T, thành phố Hồ Chí Minh - Tạm trú nhà không số, đường X, khu phố Y, phường H, quận T, thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch Việt Nam; Dân tộc Kinh; Nghề nghiệp buôn bán; Trình độ học vấn 08/12; Cha Ngô Văn N, mẹ Hồ Thị T; Chưa có vợ, con; Tiền sự không, tiền án “Ngày 24/01/2019, bị tòa án nhân dân quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 tháng 26 ngày tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tạm giam từ ngày 03/05/2019 (có mặt).

2. Đặng Văn T; Giới tính Nam; Sinh năm 1989, tại tỉnh Thanh Hóa; Thường trú thôn C, xã C, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; Tạm trú hẻm số 188, đường T, phường L, quận T, thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch Việt Nam; Dân tộc Kinh; Nghề nghiệp không; Trình độ học vấn 09/12; Cha Đặng Văn K (chết), mẹ Đàm Thị T; Chưa có vợ, con;

Tiền án: (1) “Ngày 18/04/2011, bị tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong bản án ngày 02/12/2011”. (2) “Ngày 28/09/2012, bị tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/01/2014, chấp hành xong bản án (nộp án phí hình sự) ngày 30/07/2019”.

Tiền sự: (1) “Ngày 04/02/2015, bị tòa án nhân dân tòa án nhân dân quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 24 tháng, chấp hành xong quyết định ngày 29/12/2016”. (2) “Ngày 20/07/2017, bị tòa án nhân dân tòa án nhân dân quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 20 tháng, chấp hành xong quyết định ngày 03/02/2016”. Tạm giam từ ngày 03/05/2019 (có mặt).

3. Trần Ngọc D; Giới tính Nam; Sinh năm 1988, tại tỉnh Khánh Hòa; Thường trú số 05, đường P, phường P, thành phố N, tỉnh K - Tạm trú số 01/6/2/16, đường số X, khu phố Y, phường T, quận T, thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch Việt Nam; Dân tộc Kinh; Nghề nghiệp không; Trình độ học vấn 00/12; Cha Trần Văn N, mẹ Lê Thị Tuyết A; Vợ, con chưa có; Tiền sự không, tiền án không. Tạm giam ngày 03/05/2019 (có mặt).

4. Nguyễn Thanh B; Giới tính Nam; Sinh năm 1983, tại thành phố Hồ Chí Minh; Cư trú số 127, đường số X, khu phố Y, phường P, quận Z, thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch Việt Nam; Dân tộc Kinh; Nghề nghiệp bảo vệ; Trình độ học vấn 12/12; Cha Nguyễn Thành L, mẹ Nguyễn Thị T; Vợ Lê Thị Kim V, con sinh năm 2005; Tiền sự không, tiền án không. Tạm giam ngày 03/05/2019 (có mặt).

II. NHỮNG NGƯỜI THAM GIA TỐ TỤNG

Bị hại:

1. Ông Nguyễn Thành Y, sinh năm 1991. Cư trú số 25/7H, xã X, huyện H, thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

2. Ông Nguyễn Tự L, sinh năm 1969. Cư trú số 53, đường P, phường X, quận B, thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

3. Ông Lê Hữu N, sinh năm 1999. Cư trú phòng trọ số 05, nhà số 168, đường số X, khu phố Y, phường P, quận Z, thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

4. Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1962. Cư trú số 61, đường X, khu phố Y, phường H, quận T, thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Khoảng 23 giờ ngày 02/05/2019, công an quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh kiểm tra phòng trọ số 02, nhà số 01/6/2/16, đường số 4, khu phố 6, phường Trường Thọ, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh phát hiện Ngô Hoàng T có hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy ”, thu giữ được 01 gói nylon chứa 0,2851g Methamphetamine, 01 đoạn thép có miếng vít dẹp dài 06 cm, 01 đoạn thép lục giác dài 06 cm, 01 thanh kim loại dung mở ốc dài 14 cm, 01 điện thoại di động hiệu OPPO. Ngô Hoàng T khai nhận là người sử dụng ma túy, số ma túy bị thu giữ mua của người tên không rõ lý lịch cho để sử dụng, không bán lại cho ai. Ngoài ra, Ngô Hoàng T còn khai nhận cùng Đặng Văn T, Trần Ngọc D, Nguyễn Thanh B thực hiện hành vi trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Thủ Đức, quận 9, quận 2 như sau:

Vụ thứ nhất: Ngày 25/04/2019, Ngô Hoàng T và B không rõ lý lịch đến số 174A, đường Tam Bình, khu phố 2, phường Tam Phú, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh lấy chiếc xe mô tô hiệu Future biển số 59S2-458.17 của ông Nguyễn Tự L, trong cốp xe có 6.000.000 đồng. Sau đó, Ngô Hoàng T lấy chiếc xe mô tô hiệu Future biển số 59S2-458.17 còn Bin lấy có 6.000.000 đồng. Biên bản định giá tài sản số 834/CV-HĐĐGTSTTTHS ngày 13/05/2019 kết luận chiếc xe mô tô hiệu Future biển số 59S2-458.17 trị giá 20.059.000 đồng, công an quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh đã trả chiếc xe đó cho ông Nguyễn Tự L, hiện ông Nguyễn Tự L không có yêu cầu gì khác.

Vụ thứ hai: Ngày 29/04/2019, Đặng Văn T và Trần Ngọc D đến phòng trọ số 05, nhà số 167, đường 339, khu phố 4, phường Phước Long B, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh lấy chiếc điện thoại SamsungGalaxy J7 của ông Lê Hữu N, sau đó đem bán được 1.800.000 đồng chia nhau mỗi người 900.000 đồng. Biên bản định giá tài sản số 835/CV-HĐĐGTSTTTHS ngày 13/05/2019 kết luận chiếc điện thoại SamsungGalaxy J7 trị giá 2.200.000 đồng, công an quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh đã trả chiếc điện thoại đó cho ông Lê Hữu N, hiện ông Lê Hữu N không có yêu cầu gì khác.

Vụ thứ ba: Ngày 29/04/2019, Ngô Hoàng T và Đặng Văn T đến số 10, đường số 09, khu phố 4, phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh lấy chiếc xe mô tô hiệu Sirius biển số 59X2-432.45 của bà Nguyễn Thị N, sau đó đem bán cho ông Đỗ Anh H được 3.800.000 đồng chia nhau mỗi người 1.900.000 đồng. Ông Đỗ Anh H, khi mua chiếc xe mô tô hiệu Sirius biển số 59X2-432.45 biết là do phạm tội mà có. Biên bản định giá tài sản số 828/CV-HĐĐGTSTTTHS ngày 13/05/2019 kết luận chiếc xe mô tô hiệu Future biển số 59X2-432.45 trị giá 10.000.000 đồng, bà Nguyễn Thị N yêu cầu bồi thường chiếc xe đó 10.000.000 đồng.

Vụ thứ bốn: Ngày 02/05/2019, Nguyễn Thanh B và Đặng Văn T, Ngô Hoàng T đến trung tâm thương mại VinCom, phường Thảo Điền, quận 2, thành phố Hồ Chí Minh lấy chiếc xe mô tô hiệu AirBlade biển số 59S1-233.31 của ông Nguyễn Thành Y, sau đó đem bán được 3.200.000 đồng chia nhau Nguyễn Thanh B 500.000 đồng, Đặng Văn T 1.350.000 đồng, Ngô Hoàng T 1.350.000 đồng. Biên bản định giá tài sản số 833/CV-HĐĐGTSTTTHS ngày 13/05/2019 kết luận chiếc xe mô tô hiệu AirBlade biển số 59S1-233.31 trị giá 11.000.000 đồng, ông Nguyễn Thành Y yêu cầu bồi thường chiếc xe đó 11.000.000 đồng.

Bên cạnh đó, Đặng Văn T, Ngô Hoàng T và Trần Ngọc D còn khai nhận thực hiện hành vi trộm cắp tài sản khác nhưng chưa xác định được bị hại như sau:

Vụ thứ nhất: Ngày 01/03/2019, Đặng Văn T và Trần Ngọc D đến nhà số 63/34, đường số 10, khu phố 2, phường Tăng Nhơn Phú B, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh lấy 01 chiếc điện thoại Nokia, 01 chiếc điện thoại Lte, 01 chiếc điện thoại VeGa, 01 chiếc điện thoại Sony Xperia, 01 chiếc Ipad hiệu Bliss.

Vụ thứ hai: Ngày 15/04/2019, Ngô Hoàng T và người tên C không rõ lý lịch đến cầu Bình Lợi, phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh lấy chiếc xe mô tô hiệu Sirius không rõ biển số, sau đó đem bán được 1.200.000 đồng chia nhau mỗi người 600.000 đồng.

Vụ thứ ba: Ngày 26/04/2019, Ngô Hoàng T đến số 236, đường quốc lộ 13, khu phố 2, phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh lấy chiếc xe mô tô hiệu Wave RS không rõ biển số, sau đó đưa cho người tên Jun không rõ lý lịch đem bán, nhưng Jun chưa trả tiền.

Vật chứng vụ án: 01 gói nylon chứa 0,2851g chất rắn có đóng dấu của CAP Trường Thọ, chữ ký xác nhận của trung tá Phan Hoàng Trạc, 01 đoạn thép có miếng vít dẹp dài 06 cm, 01 đoạn thép lục giác dài 06 cm, 01 thanh kim loại dùng mở ốc dài 14 cm, 01 điện thoại di động hiệu OPPO, 01 điện thoại di động hiệu Huawei, 01 dụng cụ mở khóa bằng kim loại dài 09 cm, 01 dụng cụ mở khóa bằng kim loại dài 10cm, 01 dụng cụ mở khóa bằng kim loại dài 08 cm, 01 dụng cụ mở khóa bằng kim loại hình chữ Z, 01 chiếc xe mô tô hiệu Winner biển số 93F1-270.86, 01 chiếc điện thoại Nokia, 01 chiếc điện thoại Lte, 01 chiếc điện thoại VeGa, 01 chiếc điện thoại Sony Xperia, 01 chiếc Ipad hiệu Bliss.

2. Cáo trạng số 286/CT-VKSTĐ ngày 29/08/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố:

2.1 Ngô Hoàng T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Trộm cắp tài sản” theo điều 249 khoản 1 điểm c, điều 173 khoản 1 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

2.2 Đặng Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điều 173 khoản 2 điểm g Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

2.3 Trần Ngọc D, Nguyễn Thanh B về tội “Trộm cắp tài sản” theo điều 173 khoản 1 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

3. Tại phiên tòa:

3.1 Ngô Hoàng T, Đặng Văn T, Trần Ngọc D và Nguyễn Thanh B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu.

3.2 Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị mức hình phạt đối với:

- Ngô Hoàng T từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy ”, từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản

- Đặng Văn T từ 02 năm tù đến 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản

- Nguyễn Thanh B từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản

- Trần Ngọc D từ 06 tháng tù đến 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

3.3 Bà Nguyễn Thị N vẫn giữ nguyên yêu cầu bồi thường và xin giảm nhẹ hình phạt cho Ngô Hoàng T, Đặng Văn T, Trần Ngọc D và Nguyễn Thanh B.

4. Ngô Hoàng T, Đặng Văn T, Trần Ngọc D và Nguyễn Thanh B không bào chữa và nói lời sau cùng xin hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

1. Các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Người bị buộc tội và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng. Như vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

2. Lời khai nhận của Ngô Hoàng T, Đặng Văn T, Trần Ngọc D và Nguyễn Thanh B phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, vật chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác do cơ quan điều tra thu thập được có trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử đã có căn cứ kết luận:

2.1 Đối với Ngô Hoàng T.

2.1.1 Về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Ngày 02/05/2019, Ngô Hoàng T có hành vi tàng trữ 0,2851g Methamphetamine, nên phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được qui định tại điều 249 khoản 1 điểm c Bộ luật hình sự.

2.1.2 Về hành vi “Trộm cắp tài sản

- Ngày 25/04/2019, Ngô Hoàng T và Bin không rõ lý lịch đến số 174A, đường Tam Bình, khu phố 2, phường Tam Phú, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh lấy chiếc xe mô tô hiệu Future biển số 59S2-458.17 của ông Nguyễn Tự L trị giá 20.059.000 đồng.

- Ngày 29/04/2019, Ngô Hoàng T và Đặng Văn T đến số 10, đường số 09, khu phố 4, phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh lấy chiếc xe mô tô hiệu Sirius biển số 59X2-432.45 của bà Nguyễn Thị N trị giá 10.000.000 đồng.

- Ngày 02/05/2019, Ngô Hoàng T, Nguyễn Thanh B và Đặng Văn T đến trung tâm thương mại VinCom, phường Thảo Điền, quận 2, thành phố Hồ Chí Minh lấy chiếc xe mô tô hiệu AirBlade biển số 59S1-233.31 của ông Nguyễn Thành Y trị giá 11.000.000 đồng.

Như vậy, Ngô Hoàng T đã thực hiện hành vi trộm cắp 03 lần với tổng trị giá tài sản là 41.059.000 đồng, nên phạm tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại điều 173 khoản 1 và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điều 52 khoản 1 điểm g Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

2.2 Đối với Đặng Văn T.

- Ngày 29/04/2019, Đặng Văn T và Ngô Hoàng T đến số 10, đường số 09, khu phố 4, phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh lấy chiếc xe mô tô hiệu Sirius biển số 59X2-432.45 của bà Nguyễn Thị N trị giá 10.000.000 đồng.

- Ngày 29/04/2019, Đặng Văn T và Trần Ngọc D đến phòng trọ số 05, nhà số 167, đường 339, khu phố 4, phường Phuớc Long B, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh lấy chiếc điện thoại SamsungGalaxy J7 của ông Lê Hữu N trị giá 2.200.000 đồng

- Ngày 02/05/2019, Đặng Văn T, Nguyễn Thanh B và Ngô Hoàng T đến trung tâm thương mại VinCom, phường Thảo Điền, quận 2, thành phố Hồ Chí Minh lấy chiếc xe mô tô hiệu AirBlade biển số 59S1-233.31 của ông Nguyễn Thành Y trị giá 11.000.000 đồng.

Như vậy, Đặng Văn T đã thực hiện hành vi trộm cắp 03 lần là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điều 52 khoản 1 điểm g Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Tổng trị giá tài sản trộm cắp là 23.200.000 đồng, Đặng Văn T đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội nên phạm tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại điều 173 khoản 2 điểm g Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

2.3 Đối với Trần Ngọc D. Ngày 29/04/2019, Trần Ngọc D và Đặng Văn T đến phòng trọ số 05, nhà số 167, đường 339, khu phố 4, phường Phước Long B, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh lấy chiếc điện thoại SamsungGalaxy J7 của ông Lê Hữu N trị giá 2.200.000 đồng. Như vậy, Trần Ngọc D đã thực hiện hành vi trộm cắp 01 lần, tổng trị giá tài sản trộm cắp là 2.200.000 đồng, nên phạm tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại điều 173 khoản 1 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

2.4 Đối với Nguyễn Thanh B. Ngày 02/05/2019, Nguyễn Thanh B và Đặng Văn T, Ngô Hoàng T đến trung tâm thương mại VinCom, phường Thảo Điền, quận 2, thành phố Hồ Chí Minh lấy chiếc xe mô tô hiệu AirBlade biển số 59S1-233.31 của ông Nguyễn Thành Y trị giá 11.000.000 đồng. Như vậy, Nguyễn Thanh B đã thực hiện hành vi trộm cắp 01 lần, tổng trị giá tài sản trộm cắp là 11.000.000 đồng, nên phạm tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại điều 173 khoản 1 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Đối với ông Đỗ Anh H, khi mua chiếc xe mô tô hiệu Sirius biển số 59X2-432.45 biết là do phạm tội mà có, nên công an quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh đã chuyển hồ sơ cho công an quận Gò vấp, thành phố Hồ Chí Minh xử lý theo thẩm quyền, nên hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

3. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh truy tố Ngô Hoàng T, Đặng Văn T, Trần Ngọc D và Nguyễn Thanh B là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

4. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

4.1 Đối với Ngô Hoàng T, có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên hội đồng xét xử áp dụng điều 51 khoản 1 điểm s Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ cho Ngô Hoàng T một phần hình phạt theo quy định của pháp luật. Ngô Hoàng T có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điều 52 khoản 1 điểm g Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

4.2 Đối với Đặng Văn T, có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên hội đồng xét xử áp dụng điều 51 khoản 1 điểm s Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ cho Đặng Văn T một phần hình phạt theo quy định của pháp luật. Đặng Văn T có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điều 52 khoản 1 điểm g Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

4.3 Đối với Trần Ngọc D, Nguyễn Thanh B có thái độ khai báo thành khẩn, không ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên hội đồng xét xử áp dụng điều 51 khoản 1 điểm i, s Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ cho Trần Ngọc D, Nguyễn Thanh B một phần hình phạt theo quy định của pháp luật. Trần Ngọc D, Nguyễn Thanh B không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

5. Xử lý vật chứng:

5.1 Đối với 01 điện thoại di động hiệu OPPO, 01 điện thoại di động hiệu Huawei, 01 điện thoại di động hiệu Nokia, 01 điện thoại di động hiệu Lte, 01 điện thoại di động hiệu VeGa, 01 điện thoại di động hiệu Sony Xperia, 01 Ipad hiệu Bliss, 01 chiếc xe mô tô hiệu Winner biển số 93F1-270.86, SM KC26E1001320, SK RLHKC2601GY000801 là công cụ, phương tiện phạm tội nên hội đồng xét xử tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

5.3 Đối với 01 gói nylon chứa 0,2851g chất rắn có đóng dấu của CAP Trường Thọ, chữ ký xác nhận của trung tá Phan Hoàng Trạc , 01 đoạn thép có miếng vít dẹp dài 06 cm, 01 đoạn thép lục giác dài 06 cm, 01 thanh kim loại dùng mở ốc dài 14 cm, 01 dụng cụ mở khóa bằng kim loại dài 09 cm, 01 dụng cụ mở khóa bằng kim loại dài 10cm, 01 dụng cụ mở khóa bằng kim loại dài 08 cm, 01 dụng cụ mở khóa bằng kim loại hình chữ Z hiện không có giá trị sử dụng, nên hội đồng xét xử tịch thu, tiêu hủy.

6. Trách nhiệm dân sự:

6.1 Đối với chiếc xe mô tô hiệu Future biển số 59S2-458.17, công an quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh đã trả chiếc xe đó cho ông Nguyễn Tự L theo biên bản trả lại tài sản ngày 31/07/2019, hiện ông Nguyễn Tự L không có yêu cầu gì khác nên hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

6.2 Đối với chiếc điện thoại SamsungGalaxy J7 trị giá 2.200.000 đồng, công an quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh đã trả chiếc điện thoại đó cho ông Lê Hữu N theo biên bản trả lại tài sản ngày 30/07/2019, hiện ông Lê Hữu N không có yêu cầu gì khác nên hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

6.3 Ông Nguyễn Thành Y yêu cầu bồi thường chiếc xe mô tô hiệu AirBlade biển số 59S1-233.31 trị giá 11.000.000 đồng, đây là yêu cầu chính đáng nên hội đồng xét xử chấp nhận, buộc Nguyễn Thanh B, Đặng Văn T và Ngô Hoàng T có trách nhiệm liên đới bồi thường.

6.4 Bà Nguyễn Thị N yêu cầu bồi thường chiếc xe mô tô hiệu Sirius biển số 59X2-432.45 trị giá 10.000.000 đồng, đây là yêu cầu chính đáng nên hội đồng xét xử chấp nhận, buộc Đặng Văn T và Ngô Hoàng T có trách nhiệm liên đới bồi thường.

7. Về án phí:

7.1 Ngô Hoàng T và Đặng Văn T mỗi người phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền phải bồi thường là 10.000.000 đồng.

7.2 Nguyễn Thanh B phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền phải bồi thường là 1.000.000 đồng.

7.4 Trần Ngọc D phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Từ những nhận định trên, hội đồng xét xử:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố:

1.1 Ngô Hoàng T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Trộm cắp tài sản”.

1.2 Đặng Văn T, Trần Ngọc D và Nguyễn Thanh B phạm tội “Trộm cắp tài sản

2. Áp dụng:

2.1 Điều 249 khoản 1 điểm c, điều 173 khoản 1; điều 51 khoản 1 điểm s, điều 52 khoản 1 điểm g, điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt, Ngô Hoàng T 01 (một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt của hai tội, Ngô Hoàng T phải chấp hành hình phạt chung là 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/05/2019.

2.2 Điều 173 khoản 2 điểm g; điều 51 khoản 1 điểm s; điều 52 khoản 1 điểm g Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt, Đặng Văn T 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/05/2019.

2.3 Điều 173 khoản 1; điều 51 khoản 1 điểm h, s Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt:

- Nguyễn Thanh B 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/05/2019.

- Trần Ngọc D 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/05/2019.

3. Áp dụng điều 584, 585, 586, 591 Bộ luật dân sự năm 2015, buộc:

3.1 Ngô Hoàng T và Đặng Văn T mỗi người phải bồi thường cho ông Nguyễn Thành Y số tiền là 5.000.000 (năm triệu) đồng và bồi thường cho bà Nguyễn Thị N số tiền là 5.000.000 (năm triệu) đồng.

3.2 Nguyễn Thanh B phải bồi thường cho ông Nguyễn Thành Y số tiền là 1.000.000 (một triệu) đồng.

Kể từ khi ông Nguyễn Thành Y, bà Nguyễn Thị N có đơn yêu cầu thi hành án, Ngô Hoàng T, Đặng Văn T, Nguyễn Thanh B chưa thanh toán đủ số tiền trên thì còn phải chịu thêm khoản tiền lãi theo mức lãi suất cơ bản do ngân hàng nhà nước công bố tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

4. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; điều 106 khoản 2, 3 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

4.1 Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu OPPO, 01 điện thoại di động hiệu Huawei, 01 điện thoại di động hiệu Nokia, 01 điện thoại di động hiệu Lte, 01 điện thoại di động hiệu VeGa, 01 điện thoại di động hiệu Sony Xperia, 01 Ipad hiệu Bliss, 01 chiếc xe mô tô hiệu Winner biển số 93F1-270.86, SM KC26E1001320, SK RLHKC2601GY000801 (Theo phiếu nhập kho số NKT2019/239 ngày 06/09/2019 của chi cục thi hành án dân sự quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh).

4.2 Tịch thu và tiêu hủy 01 gói nylon chứa 0,2851g chất rắn có đóng dấu của CAP Trường Thọ, chữ ký xác nhận của trung tá Phan Hoàng Trạc, 01 đoạn thép có miếng vít dẹp dài 06 cm, 01 đoạn thép lục giác dài 06 cm, 01 thanh kim loại dùng mở ốc dài 14 cm, 01 dụng cụ mở khóa bằng kim loại dài 09 cm, 01 dụng cụ mở khóa bằng kim loại dài 10cm, 01 dụng cụ mở khóa bằng kim loại dài 08 cm, 01 dụng cụ mở khóa bằng kim loại hình chữ Z (Theo phiếu nhập kho số NKT2019/239 ngày 06/09/2019 của chi cục thi hành án dân sự quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh).

5. Áp dụng Luật phí và lệ phí năm 2015; Điều 23 khoản 1 điểm a Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí và lệ phí tòa án ngày 30/12/2016.

5.1 Ngô Hoàng T và Đặng Văn T mỗi người phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 500.000 (năm trăm ngàn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

5.2 Nguyễn Thanh B phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 (ba trăm ngàn) đồng án phí dân sự sơ thẩm

5.3 Trần Ngọc D phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

6. Áp dụng điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Ngô Hoàng T, Đặng Văn T, Trần Ngọc D, Nguyễn Thanh B và bà Nguyễn Thị N được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Nguyễn Thành Y, ông Nguyễn Tự L, ông Lê Hữu N được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 272/2019/HSST ngày 23/09/2019 về tội trộm cắp tài sản và tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:272/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;