Bản án 272/2019/HNGĐ-ST ngày 25/12/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 272/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/12/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 25 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 859/2019/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 11 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 280/2019/QĐXX-ST ngày 02 tháng 12 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 240/2019/QĐST-HNGĐ ngày 17 tháng 12 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Đ; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Giữa, xã Q, huyện T, thành phố Hải Phòng; nơi ở hiện nay: Thôn 5, xã An Sơn, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn C; địa chỉ: địa chỉ: Thôn Giữa, xã Q, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 16/10/2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, chị Hoàng Thị Đ (nguyên đơn) trình bày:

Về hôn nhân: Chị Hoàng Thị Đ và anh Nguyễn Văn C kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng vào ngày 30/5/2011. Quá trình chung sống, vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong công việc, sinh hoạt và nuôi dạy con vợ chồng không thống nhất. Mặt khác, anh C mải chơi và có quan hệ với người phụ nữ khác, chị Đ đã khuyên bảo nhưng anh C không nghe dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng, xúc phạm nhau và có lần anh C đã đánh chị Đ. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng không thành. Do mâu thuẫn, vợ chồng chị hiện đã sống ly thân nhau. Nay, chị Đ nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, khả năng đoàn tụ không có nên chị Đ yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Văn C.

Về con chung: Chị Hoàng Thị Đ khai: Chị và anh Nguyễn Văn C có 02 con là Nguyễn Hoàng P, sinh ngày 22 tháng 02 năm 2012 và Nguyễn Minh Kh, sinh ngày 01 tháng 7 năm 2017. Hiện anh C đang nuôi cả hai con. Trường hợp ly hôn, chị Đ đề nghị Tòa án giao cả hai con cho anh C trực tiếp nuôi dưỡng..

Về nghĩa cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Đ khai chị và anh C tự thỏa thuận giao nhận với nhau nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Hoàng Thị Đ khai: Chị và anh Nguyễn Văn C không có tài sản chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 12 tháng 11 năm 2019 và lời trình khai trong quá trình giải quyết vụ án,anh Nguyễn Văn C (bị đơn) trình bày:

Về hôn nhân: Anh Nguyễn Văn C xác nhận lời khai của chị Đ về thời gian, điều kiện, hình thức kết hôn, nguyên nhân và tình trạng mâu thuẫn vợ chồng là đúng. Nay chị Đ xin ly hôn, quan điểm của anh C không đồng ý ly hôn vì lý do anh C vẫn còn tình cảm yêu thương chị Đ.

Về con chung: Anh Nguyễn Văn C khai anh và chị Hoàng Thị Đ có 02 con là Nguyễn Hoàng P Anh, sinh ngày 22 tháng 02 năm 2012 và Nguyễn Minh Kh, sinh ngày 01 tháng 7 năm 2017. Hiện anh C đang nuôi cả hai con. Trường hợp ly hôn, anh C có nguyện vọng được nuôi cả hai con.

Về nghĩa cấp dưỡng nuôi con chung: Anh C không yêu cầu chị Đ phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Anh Nguyễn Văn C khai: Anh và chị Đ khôngcó tài sản chung nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Đ và anh C. Về việc giải quyết vụ án: Tài liệu điều tra thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị Hoàng Thị Đ và anh Nguyễn Văn C đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị Đ và anh C được ly hôn. Về con chung: Chị Hoàng Thị Đ và anh Nguyễn Văn C có 02 con chung là Nguyễn Hoàng P Anh, sinh ngày 22 tháng 02 năm 2012 và Nguyễn Minh Kh, sinh ngày 01 tháng 7 năm 2017. Hiện anh C đang nuôi cả hai con. Căn cứ tài liệu điều tra xác minh khả năng, điều kiện nuôi con của mỗi bên, nguyện vọng đương sự và nguyện vọng của con chung, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao cho anh Nguyễn Văn C trực tiếp nuôi dưỡng hai con con chung là Nguyễn Hoàng P và Nguyễn Minh Kh cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung và tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết trong vụ án này. Về nghĩa vụ nộp án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì chị Đ phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Hoàng Thị Đ và anh Nguyễn Văn C được xác lập vào năm 2011 là hợp pháp. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong sinh hoạt, trong lao động và nuôi dạy con dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng, xúc phạm nhau. Do mâu thuẫn nên chị Đ và anh C hiện đã sống ly thân nhau. Chị Đ xin ly hôn anh C, Tòa án đã triệu tập anh C đến phiên tòa nhiều lần để trình bày ý kiến về việc chị Đ xin ly hôn nhưng anh C vẫn vắng mặt không có lý do. Điều này thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị Đ và anh C đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn xử cho chị Đ và anh C được ly hôn.

[2] Về con chung: Chị Hoàng Thị Đ và anh Nguyễn Văn C có 02 con chung là Nguyễn Hoàng P, sinh ngày 22 tháng 02 năm 2012 và Nguyễn Minh Kh, sinh ngày 01 tháng 7 năm 2017. Hiện anh C đang nuôi cả hai con. Khi ly hôn, anh C có nguyện vọng được nuôi cả hai con chung, chị Đ đề nghị Tòa án giao cả hai con cho anh C nuôi dưỡng. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện từ khi sống ly thân đến nay, anh C là người trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung và vẫn đảm bảo tốt về mọi mặt, anh C có công việc và thu nhập ổn định. Vì vậy giao cho anh Nguyễn Văn C được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung là Nguyễn Hoàng P Anh và Nguyễn Minh Kh cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở là phù hợp với Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình và phù hợp với nguyện vọng của con chung.

[3] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Hoàng Thị Đ và anh Nguyễn Văn C thống nhất tự thỏa thuận giao nhận cho nhau không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Chị Hoàng Thị Đ và anh Nguyễn Văn C thống nhất khai không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì chị Hoàng Thị Đ phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Chị Hoàng Thị Đ và anh Nguyễn Văn C được quyền kháng cáo trong thời hạn do pháp luật quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Hoàng Thị Đ và anh Nguyễn Văn C.

2. Về con chung: Giao cho anh Nguyễn Văn C trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung là Nguyễn Hoàng P, sinh ngày 22 tháng 02 năm 2012 và Nguyễn Minh Kh, sinh ngày 01 tháng 7 năm 2017 cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Hoàng Thị Đ phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng chị Đ đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0003141 ngày 01 tháng 11 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, chị Hoàng Thị Đ đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Chị Hoàng Thị Đ và anh Nguyễn Văn C có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 272/2019/HNGĐ-ST ngày 25/12/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:272/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;