Bản án 27/2021/HNGĐ-ST ngày 29/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 27/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 29 tháng 6 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 58/2021/TLST- HNG§ ngµy 22 tháng 03 năm 2021 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 09 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1989.

Địa chỉ: Số nhà 29, tổ 8, phường T, thành phố T, tỉnh Ninh Bình.

- Bị đơn: Chị Trần Thị D, sinh năm 1990.

Địa chỉ: Thôn Đ, xã Ph, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Tại phiên tòa anh T, chị Dcó mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 19 tháng 03 năm 2021 và bản tự khai, nguyên đơn Anh Nguyễn Văn T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và Chị Trần Thị D lấy nhau có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố T, tỉnh Ninh Bình ngày 18/02/2011 dựa trên cơ sở tự nguyện. Sau khi cưới anh chị sinh sống tại Tam Điệp đến tháng 7/2016 chị Dsinh cháu thứ 2 xin về ngoại tại xã Ph chơi mấy tháng. Sau đó chị Dở luôn tại xã Ph không về. Anh xác định vợ chồng mâu thuẫn nhưng là mâu thuẫn nhỏ trong cuộc sống. Tuy nhiên việc chị Dtự ý ở lại trên Phú Lộc không muốn quay về mặc dù bản thân anh và gia đình anh đã lên nói nhiều lần với chị Dvà bố mẹ vợ anh để chị Dvề dưới Tam Điệp, anh xác định vợ chồng anh chị không còn tình cảm, thời gian ly thân đã lâu. Nay anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với Chị Trần Thị D.

Về con chung: anh T xác định vợ chồng anh chị có 02 con chung là cháu Nguyễn Ngọc L, sinh ngày 16/02/2012 và cháu Nguyễn Tuệ Nh, sinh ngày 02/7/2016. Hiện nay cả hai cháu đều đang ở với chị Dung. Nếu ly hôn anh T có nguyện vọng được nuôi cháu Nguyễn Ngọc L còn chị Dnuôi cháu Nguyễn Tuệ Nh. Hai bên không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

Về tài sản chung, công nợ chung: anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của bị đơn Chị Trần Thị D đƣợc thể hiện tại bản tự khai ngày 01/4/2021 và thể hiện trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án: chị Dthừa nhận thời gian kết hôn và chung sống như anh T. Còn về quá trình chung sống có mâu thuẫn nhưng theo chị nguyên nhân là do anh T chơi bời, có quan hệ với người phụ nữ khác nên không quan tâm đến vợ con. Do không chịu đựng được nên năm 2016 chị Dđã cùng các con về nhà bố mẹ đẻ chị tại xã Ph, huyện N sinh sống từ đó đến nay. Chị xác định chị và anh T ly thân không còn tình cảm vợ chồng. Nay anh T làm đơn xin ly hôn thì chị Dđồng ý ly hôn vì chị xác định không còn tình cảm với anh T.

Về con chung: chị Dxác định chị và anh T có 02 con chung là cháu Nguyễn Ngọc L, sinh ngày 16/02/2012 và cháu Nguyễn Tuệ Nh, sinh ngày 02/7/2016. Hiện nay cả hai cháu đều đang ở với chị. Nếu ly hôn chị Dcó nguyện vọng được tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cả 2 cháu cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Chị yêu cầu anh T có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con cùng với chị mỗi tháng mỗi cháu là 1.000.000 đồng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Lý do chị Dcó nguyện vọng nuôi cả hai cháu vì chị cho rằng anh T ngoại tình và có dùng chất kích thích, bản thân chị Dcũng có việc làm và nghề nghiệp, khi giao cháu Luân cho anh T nuôi sẽ không đảm bảo việc học hành của cháu vì trình độ học vấn của anh T thấp.

Về tài sản chung, công nợ chung: chị Dkhông yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngày 22 tháng 03 năm 2021 Tòa án nhân dân huyện N đã thụ lý vụ án về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo đơn khởi kiện của Anh Nguyễn Văn T. Sau khi thụ lý vụ án Tòa án nhân dân huyện N đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng thủ tục pháp luật quy định.

Do quá trình giải quyết các bên đương sự không thống nhất được việc giải quyết toàn bộ các vấn đề của vụ án nên vụ án được đưa ra xét xử theo thủ tục chung.

Tại phiên tòa nguyên đơn vẫn giữ nguyên quan điểm xin được ly hôn với chị Dvà xin được nuôi con chung là cháu Nguyễn Ngọc L. anh T có cung cấp chứng cứ tại phiên tòa là Giấy chứng nhậnđăng ký kinh doanh dịch vụ ăn uống đứng tên anh và cung cấp bản sao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Nguyễn Văn Tỵ. chị Dđồng ý thuận tình ly hôn với anh T, tuy nhiên về con chung chị vẫn giữ quan điểm xin được nuôi cả hai cháu và yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi hai con chung là 1000.000 đồng/1 cháu/ 1 tháng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi.

Ý kiến phát biểu của kiểm sát viên:

* Về thủ tục tố tụng:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng các quy định tại các Điều 70, 71,72 và điều 234 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

* Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX:

- Áp dụng Điều 5, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Các Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/UBTCQH 14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội quy định về án phí. Xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Anh Nguyễn Văn T 1. Về quan hệ hôn nhân: Xử ly hôn giữa Anh Nguyễn Văn T và Chị Trần Thị D.

2. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Giao cháu Nguyễn Ngọc L, sinh ngày 16/02/2012 hiện đang ở với chị Dcho anh T trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc, giáo dục cho đến khi cháu đủ 18 tuổi; Giao cháu Nguyễn Tuệ Nh, sinh ngày 02/07/2016 hiện đang ở với chị Dcho chị Dtiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc, giáo dục cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. anh T và chị Dkhông phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

3. Về án phí: Anh Nguyễn Văn T phải chịu án phí ly hôn theo quy định là 300.000đồng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí anh T đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện N.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về thủ tục tố tụng:

[1.1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Đây là quan hệ pháp luật “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2]. Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Bị đơn hiện đang cư trú tại Đồi Mít, xã Ph, huyện N, tỉnh Ninh Bình nên Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình thụ lý vụ án là phù hợp với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2]. Về nội dung: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa HĐXX nhận thấy:

[2.1].Về quan hệ hôn nhân:

Quan hệ hôn nhân giữa anh T và chị Dlà quan hệ hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên hai bên chỉ chung sống hạnh phúc với nhau được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do hai bên không hòa hợp, không cùng thống nhất được quan điểm trong cuộc sống và không tin tưởng nhau về mặt tình cảm dẫn đến va chạm và mâu thuẫn. Thực tế các bên cũng thừa nhận đã ly thân từ năm 2016 cho đến nay. Điều đó chứng tỏ quan hệ hôn nhân giữa hai bên chỉ còn tồn tại về mặt hình thức, mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa anh T, chị Dthống nhất thuận tình ly hôn đề nghị Tòa án công nhận. Do vậy, cần chấp nhận yêu cầu xin thuận tình ly hôn của các đương sự là có căn cứ, phù hợp với Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.2].Về con chung: Nguyện vọng của anh T xin được nuôi 01 con chung là cháu Nguyễn Ngọc L, sinh ngày 16/02/2012. chị Dcó nguyện vọng nuôi cả hai cháu Nguyễn Ngọc L, sinh ngày 16/02/2012 và cháu Nguyễn Tuệ Nh, sinh ngày 02/7/2016. Hiện cả hai cháu đang ở với chị Dvà đề nghị anh T có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con cùng với chị Dmỗi tháng mỗi cháu là 1.000.000 đồng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. anh T và chị Dđều cung cấp cho Tòa án chứng cứ chứng minh anh chị có đủ điều kiện về kinh tế để nuôi dạy và chăm sóc con. Hội đồng xét xử thấy: Đối với anh T và chị Dđều khỏe mạnh, có thu nhập, qua xác minh tại ủy ban nơi cư trú của cả hai bên thì anh chị đều là công dân chấp hành tốt pháp luật không có biểu hiện vi phạm pháp luật và đạo đức xã hội. Mặt khác con chung của anh chị đều đến tuổi đi học và cần sự quan tâm chăm sóc chu đáo của bố mẹ. Vì vậy Hội đồng xét xử xét thấy về điều kiện sức khỏe thu nhập của cả hai bên đương sự như nhau nên cần giao cho mỗi bên chăm sóc và nuôi dưỡng 1 cháu là phù hợp. Do vậy, để đảm bảo sự ổn định, lợi ích mọi mặt của các cháu nên giao cháu Nguyễn Ngọc L, sinh ngày 16/02/2012 cho anh T trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng, giao cháu Nguyễn Tuệ Nh, sinh ngày 02/7/2016 cho chị Dtiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng là có căn cứ theo Điều 81 Luật hôn nhân gia đình.

[2.3]. Về cấp dưỡng nuôi con chung: chị Dcó yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi hai con chung với mức là 1.000.000 đồng/1 cháu/ tháng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Xét yêu cầu này không được chấp nhận vì hội đồng xét xử giao cho mỗi bên nuôi 1 cháu vì vậy không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

[2.4]. Về tài sản chung, công nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra vấn đề giải quyết.

[2.5]. Về án phí ly hôn sơ thẩm: anh T phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các điều 147, 266, 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Áp dụng các điều 55, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình.

- Áp dụng Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH-14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí Toà án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử công nhận thuận tình ly hôn giữa Anh Nguyễn Văn T và Chị Trần Thị D.

2.Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Giao cháu Nguyễn Ngọc L, sinh ngày 16/02/2012 (hiện đang ở với chị D) cho Anh Nguyễn Văn T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi cháu Luân đủ 18 tuổi hoặc khi có thay đổi khác. Giao cháu Nguyễn Tuệ Nh, sinh ngày 02/7/2016 (hiện đang ở với chị D) cho Chị Trần Thị D tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi cháu Tuệ Nhi đủ 18 tuổi hoặc khi có thay đổi khác. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc và nuôi dưỡng, giáo dục con thì ng•ời trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Anh Nguyễn Văn T phải nộp toàn bộ án phí ly hôn theo quy định của pháp luật là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) anh T đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí ly hôn số AA/2019/0000255 ngày 22/03/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện N.

4. Quyền kháng cáo: Anh Nguyễn Văn T và Chị Trần Thị D được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 27/2021/HNGĐ-ST ngày 29/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:27/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;