Bản án 27/2021/HNGĐ-ST ngày 20/08/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ A - TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 27/2021/HNGĐ-ST NGÀY 20/08/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 20 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã A, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 61/2021/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 4 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2021/QĐXX-ST ngày 03 tháng 6 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị L, sinh năm 1982; địa chỉ: Thôn A, xã C, thị xã A, tỉnh Gia Lai; có mặt;

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Xuân V, sinh năm 1981; địa chỉ: Thôn A, xã C, thị xã A, tỉnh Gia Lai; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Lê Thị L trình bày: Chị và anh Nguyễn Xuân V tự nguyện kết hôn có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, thị xã A vào ngày 04/9/2002. Vợ chồng sống hạnh phúc một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, anh V thường xuyên uống rượu say về la lối, đánh đập vợ con. Vào tháng 8 năm 2019 chị đã nộp đơn ly hôn, sau đó chị L rút đơn vì anh V hứa sẽ thay đổi. Tuy nhiên chỉ được một thời gian ngắn anh V lại tiếp tục chửi la, đánh đập chị. Chị đã cố gắng cam chịu để chung sống nuôi con nhưng cuộc sống hôn nhân ngày càng trầm trọng làm ảnh hưởng đến tình cảm, tâm lý và việc nuôi dạy con. Hiện nay các con chị cũng đã lớn nên có thể hiểu và thông cảm được, do vậy chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh Nguyễn Xuân V.

Về việc nuôi con: Chị và anh V có có 2 con chung là Nguyễn Thị Bích H, sinh ngày 24/01/2003 và Nguyễn Quốc H1, sinh ngày 12/8/2004. Cháu H đã trên 18 tuổi và tự lập được nên chị L không yêu cầu giải quyết. Đối với cháu H1, theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án chị có yêu cầu giao cho anh V trực tiếp nuôi cháu H1. Tuy nhiên do anh V làm nghề lái xe và sống tại An Khê, anh V thường xuyên vắng nhà, chị hiện nay có công việc ổn định tại thị xã Ayunpa, tỉnh Gia Lai, cháu H1 đang học nghề tại thị xã AyunPa. Nên chị thay đổi yêu cầu, đề nghị giao cho chị được trực tiếp nuôi cháu H1 sẽ thuận tiện hơn cho việc chăm sóc, nuôi dạy cháu. Chị L không yêu cầu anh V phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Lời khai có tại hồ sơ của bị đơn anh Nguyễn Xuân V thể hiện: Anh V và chị Lê Thị L tự nguyện kết hôn có đăng ký kết hôn như chị L trình bày. Trong quá trình chung sống vợ chồng anh cũng có mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, anh V nóng tính nên có hay la lối vợ con. Năm 2019 Lan đã nộp đơn ly hôn nhưng sau đó rút đơn. Hiện nay tình cảm vợ chồng vẫn còn, anh vẫn muốn vợ chồng cùng chung sống để nuôi dạy con nên anh không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị L.

Về con chung: Anh và chị L có 02 con chung là Nguyễn Thị Bích H, sinh ngày 24/01/2003 và cháu Nguyễn Quốc H1, sinh ngày 12/8/2004. Cháu H đã trên 18 tuổi và tự lập được nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu H1 và không yêu cầu chị L phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung nghĩa vụ chung về tài sản: Anh V không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã A tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ phần yêu cầu của nguyên đơn: Về hôn nhân chấp nhận cho chị Lê Thị L ly hôn với anh Nguyễn Xuân V. Về việc nuôi con, giao cho chị L trực tiếp nuôi con là cháu Nguyễn Quốc H1, sinh ngày 12/8/2004. Về án phí, nguyên đơn chị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Nguyên đơn chị Lê Thị L yêu cầu ly hôn và có tranh chấp về nuôi con với anh Nguyễn Xuân V, sinh năm 1981; địa chỉ: Thôn A, xã C, thị xã A, tỉnh Gia Lai. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, thì đây là vụ án về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã A, tỉnh Gia Lai.

[2] Bị đơn anh Nguyễn Xuân V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn anh Nguyễn Xuân V.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị L và anh Nguyễn Xuân V tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật nên là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống chị L và anh V có phát sinh mâu thuẫn nên chị L đã hai lần nộp đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh V. Anh V mặc dù không đồng ý ly hôn nhưng cả hai bên đều đã không cố gắng gỡ bỏ mâu thuẫn để tiếp tục chung sống cùng nhau. Nhiều lần Tòa án hòa giải, phân tích hậu quả của việc ly hôn, động viên các bên để tiếp tục chung sống, cùng nhau xây dựng hạnh phúc nhưng không thành. Chị L và anh V hiện đã không chung sống cùng nhau từ tháng 02/2021 đến nay. Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị L và anh V là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Lê Thị L với anh Nguyễn Xuân V.

[4] Về việc nuôi con: Chị L và anh V có 2 con chung là Nguyễn Thị Bích H, sinh ngày 24/01/2003 và Nguyễn Quốc H1, sinh ngày 12/8/2004. Cháu H đã trên 18 tuổi và tự lập được, chị L và anh V không có yêu cầu giải quyết.

Tại bản khai ngày 04/8/2021 của cháu Nguyễn Quốc H1 thể hiện, cháu H1 muốn sống cùng với mẹ vì cháu H1 đang học nghề và làm việc tại thị xã Ayunpa, cùng với nơi làm việc của chị L. Xét chị L đang trong độ tuổi lao động, có sức khỏe, có công việc và thu nhập ổn định nên có đủ điều kiện để nuôi con. Anh V làm nghề lái xe, công việc thường xuyên vắng nhà. Do vậy cần chấp nhận yêu cầu của chị L, giao cho chị L trực tiếp nuôi con là cháu Nguyễn Quốc H1 mới bảo đảm tốt cho sự phát triển của cháu.

Chị L không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Chị L và anh V không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Nguyên đơn chị Lê Thị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

Bị đơn anh Nguyễn Xuân V không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 56, 57, 81, 82, 83, 84 và Điều 119 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Lê Thị L cụ thể như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận chị Lê Thị L ly hôn với anh Nguyễn Xuân V.

- Về việc nuôi con: Giao cho chị Lê Thị L trực tiếp nuôi con là cháu Nguyễn Quốc H1, sinh ngày 12/8/2004, khi cháu H1 chưa thành niên hoặc đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nếu người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trên cơ sở lợi ích của con, các đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc cấp dưỡng nuôi con.

2. Về án phí: Chị Lê Thị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng), được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ, theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0011509 ngày 08 tháng 4 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã A, chị L đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Anh Nguyễn Xuân V không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 20/8/2021. Bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15(mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

142
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 27/2021/HNGĐ-ST ngày 20/08/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:27/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ayun Pa - Gia Lai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;