Bản án 27/2021/HNGĐ-ST ngày 13/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 27/2021/HNGĐ-ST NGÀY 13/05/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

 Trong ngày 04 tháng 5 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 471/2020/TLST – HNGĐ ngày 08 tháng 12 năm 2020, về tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 14 tháng 4 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 17/2021/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 5 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trịnh Thu T1; sinh năm: 1991; địa chỉ: Tổ 6, khu P, phường C, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; có mặt.

2. Bị đơn: Anh Bùi Ngọc Đ; sinh năm: 1991; địa chỉ: Tổ 6, khu P, phường C, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong Đơn khởi kiện về việc xin ly hôn đề ngày 23 tháng 11 năm 2020 nộp tại Tòa án; các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Trịnh Thu T1 trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Trịnh Thu T1 và anh Bùi Ngọc Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn hợp pháp ngày 15 tháng 6 năm 2012 tại Ủy ban nhân dân phường Cẩm Tây, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng chung sống hạnh phúc tại gia đình nhà chồng ở địa chỉ: Tổ 6, khu P, phường C, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Đến khoảng năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do hai vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không hòa hợp về tính cách nên thường xảy ra cãi vã, xô xát lẫn nhau và do anh Bùi Ngọc Đ có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác. Chị Trịnh Thu T1 và anh Bùi Ngọc Đ sống ly thân từ tháng 9 năm 2020 cho đến nay, không quan tâm đến cuộc sống của nhau, kinh tế gia đình không tập trung. Trong thời gian sống ly thân, chị Trịnh Thu T1 và anh Bùi Ngọc Đ đã tìm cách hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không có kết quả. Mâu thuẫn giữa vợ chồng chị T đã được gia đình hai bên và khu phố khuyên giải đoàn tụ nhiều lần nhưng không thành. Chị Trịnh Thu T1 xác định đến nay mâu thuẫn giữa chị và anh Bùi Ngọc Đ đã đến mức trầm trọng, không thể hàn gắn được, tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho Chị được ly hôn với anh Bùi Ngọc Đ để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Chị Trịnh Thu T1 và anh Bùi Ngọc Đ có 02 con chung là Bùi Ngọc T2, sinh ngày 01/8/2012 và Bùi Ngọc M, sinh ngày 05/10/2017. Hiện nay cháu T2 đang ở cùng anh Bùi Ngọc Đ còn cháu M đang ở cùng chị Trịnh Thu T1. Khi ly hôn, chị Trịnh Thu T1 đề nghị Tòa án giao con chung Bùi Ngọc M cho chị T1 được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục và giao con chung Bùi Ngọc T2 cho anh Bùi Ngọc Đ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Chị Trịnh Thu T1 và anh Bùi Ngọc Đ không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, công nợ chung vợ chồng: Chị Trịnh Thu T1 không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, anh Bùi Ngọc Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để hòa giải và giải quyết những vấn đề khác có liên quan đến nội dung của vụ án nhưng đều vắng mặt. Tuy nhiên tại bản tự khai đề ngày 28 tháng 01 năm 2021, anh Bùi Ngọc Đ có quan điểm thể hiện về quá trình kết hôn và con chung đúng như nội dung phần trình bày của chị Trịnh Thu T1 đã nêu ở trên. Anh Đ thừa nhận mâu thuẫn vợ chồng phát sinh thường xuyên hơn từ khoảng tháng 9 năm 2020 do anh Đ mải chơi không quan tâm đến gia đình, vợ con. Tuy nhiên anh Đ vẫn còn tình cảm với chị T, muốn cùng chị T duy trì hạnh phúc gia đình, nuôi dạy con cái nên không đồng ý ly hôn với chị Trịnh Thu T1. Về con chung: trong trường hợp Tòa án giải quyết cho chị T được ly hôn với Anh thì anh Đ đồng ý là người trực tiếp được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Bùi Ngọc T2, đề nghị Tòa án giao con chung Bùi Ngọc M cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng; chị Trịnh Thu T1 và anh Bùi Ngọc Đ không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung. về tài sản chung, công nợ chung của vợ chồng: anh Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản xác minh thu thập chứng cứ của Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả ngày 24 tháng 3 năm 2021 đối với trưởng khu P, phường C, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh thể hiện nội dung về quá trình chung sống và tình trạng sống ly thân của vợ chồng chị Trịnh Thu T1 và anh Bùi Ngọc Đ đúng như phần trình bày của chị Trịnh Thu T1 và anh Bùi Ngọc Đ đã nêu ở trên.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả phát biểu ý kiến như sau:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn trong vụ án đã thực hiện đúng và đủ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự từ khi thụ lý đến khi xét xử. Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả đánh giá mâu thuẫn giữa chị Trịnh Thu T1 và anh Bùi Ngọc Đ là trầm trọng, kéo dài. Nay chị Trịnh Thu T1 đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Bùi Ngọc Đ là có căn cứ chấp nhận. Về con chung: các đương sự đã có sự thống nhất quan điểm về người trực tiếp nuôi con khi ly hôn nên đề nghị Tòa án giao con chung Bùi Ngọc T2, sinh ngày 01/8/2012 cho anh Bùi Ngọc Đ trực tiếp nuôi dưỡng và giao con chung Bùi Ngọc M, sinh ngày 05/10/2017 cho chị Trịnh Thu T1 trực tiếp nuôi dưỡng, chị Trịnh Thu T1 và anh Bùi Ngọc Đ không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào yêu cầu khởi kiện; kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Trịnh Thu T1 với anh Bùi Ngọc Đ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn, anh Bùi Ngọc Đ đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ nhưng vắng mặt lần thứ hai nên Tòa án xét xử vắng mặt anh Bùi Ngọc Đ theo quy định tại khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án: Qua các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của nguyên đơn tại phiên tòa thể hiện:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trịnh Thu T1 và anh Bùi Ngọc Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn hợp pháp ngày 15 tháng 6 năm 2012 tại Ủy ban nhân dân phường Cẩm Tây, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng chung sống hạnh phúc tại gia đình nhà chồng ở địa chỉ: Tổ 6, khu P, phường C, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Đến khoảng năm 2019 thì xảy ra mâu thuẫn do bất đồng về quan quan điểm, lối sống và anh Đ thiếu sự quan tâm đến gia đình, vợ con do đó chị T và anh Đ sống ly thân từ tháng 9 năm 2020 cho đến nay. Trong thời gian sống ly thân chị Trịnh Thu T1 và anh Bùi Ngọc Đ đã tìm biện pháp hàn gắn tình cảm nhưng không có kết quả. Mâu thuẫn vợ chồng chị Trịnh Thu T1 và anh Bùi Ngọc Đ đã được gia đình, người thân, tổ dân khu phố động viên, hòa giải đoàn tụ nhiều lần nhưng không thành. Đến nay mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Trịnh Thu T1 và anh Bùi Ngọc Đ đã đến mức trầm trọng, không thể hàn gắn được, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được nên chị Trịnh Thu T1 đề nghị Tòa án giải quyết cho Chị được ly hôn với anh Bùi Ngọc Đ để ổn định cuộc sống. Xét yêu cầu đề nghị giải quyết ly hôn của nguyên đơn là có căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Chị Trịnh Thu T1 và anh Bùi Ngọc Đ có hai con chung là Bùi Ngọc T2, sinh ngày 01/8/2012 và Bùi Ngọc M, sinh ngày 05/10/2017. Hiện nay con chung Bùi Ngọc T2 đang ở cùng anh Bùi Ngọc Đ và con chung Bùi Ngọc My đang ở cùng chị Trịnh Thu T1. Khi ly hôn, chị Trịnh Thu T1 đề nghị Tòa án giao con chung Bùi Ngọc M cho chị T được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục và giao con chung Bùi Ngọc T2 cho anh Bùi Ngọc Đ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; chị Trịnh Thu T1 và anh Bùi Ngọc Đ không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung. Quan điểm về con chung của nguyên đơn đã được bị đơn đồng ý, phù hợp với nguyện vọng của con chung và phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.3] Về tài sản chung, công nợ chung của vợ chồng: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Chị Trịnh Thu T1 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 227, Điều 147, Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Tuyên xử:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chị Trịnh Thu T1 về việc xin ly hôn, nuôi con khi ly hôn.

1. Chị Trịnh Thu T1 được ly hôn với anh Bùi Ngọc Đ.

2. Giao con chung Bùi Ngọc T2, sinh ngày 01/8/2012 cho anh Bùi Ngọc Đ là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; giao con chung Bùi Ngọc M, sinh ngày 05/10/2017 cho chị Trịnh Thu T1 trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Thời điểm giao con chung kể từ ngày 13 tháng 5 năm 2021 cho đến khi từng con chung thành niên (đủ 18 tuổi). Chị Trịnh Thu T1 và anh Bùi Ngọc Đ không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở. Các đương sự vẫn có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc giải quyết về vấn đề cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Buộc chị Trịnh Thu T1 phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số: 0005602 ngày 04/12/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Chị Trịnh Thu T1 đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

4. Chị Trịnh Thu T1 có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, anh Bùi Ngọc Đ có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 27/2021/HNGĐ-ST ngày 13/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:27/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;