Bản án 27/2020/HS-ST ngày 24/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ B, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 27/2020/HS-ST NGÀY 24/11/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 04/2020/TLST-HS ngày 02 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2020 đối với Bị cáo:

Họ và tên: Lò Thị S; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nữ; Sinh năm: 1968 tại: Điện Biên; Nơi cư trú: Bản X, xã T A, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa (học vấn): Không; Con ông: Lò Văn T (đã chết) và con bà: Lò Thị X - sinh năm 1934; Chồng: Lò Văn B - sinh năm 1965; Bị cáo có 05 người con, con lớn sinh năm 1986, con nhỏ sinh năm 2008; Tiền án: Không, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 10/3/2010 Bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên xử 24 tháng tù về tội "Vận chuyển, tàng trữ trái phép chất ma túy". Ngày 31/8/2011 Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên cấp giấy chứng nhận đặc xá số 02. Đặc xá miễn chấp hành hình phạt tù cho người bị kết án phạt tù được hoãn chấp hành hình phạt, Bị cáo có nhân thân xấu.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ từ ngày 17/7/2020 sau đó bị tạm giam cho đến ngày xét xử (có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 08 giờ 30 phút ngày 17/7/2020, Lò Thị S đi bộ từ nhà ở bản X, xã T A, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên ra khu vực đường của bản Xôm, xã T A tìm mua Heroine về bán kiếm lời. Khi đi đến khu vực giữa bản X, xã T A Bị cáo gặp một người đàn ông dân tộc Thái, khoảng 30 tuổi (Bị cáo không biết tên, địa chỉ) và hỏi: “ Có Heroine không? Bán cho hai trăm nghìn”. Người đàn ông nói: “Có, đưa tiền đây”. Nghe vậy, Bị cáo đưa cho người đàn ông 200.000 đồng. Người đàn ông cầm tiền Bị cáo đưa rồi đưa lại cho Bị cáo một gói nilon màu trắng, miệng gói xoắn lại, bên trong có 07 gói Heroine, mỗi gói bên ngoài gói bằng mảnh nilon màu trắng, bên trong là cục bột Heroine. Bị cáo cầm gói Heroine ở tay trái rồi đi bộ về nhà. Về nhà, Bị cáo sinh hoạt bình thường. Khoảng 09 giờ cùng ngày Bị cáo đang ở nhà thì một người đàn ông dân tộc Thái, khoảng 25 tuổi (Bị cáo không biết tên, địa chỉ) đến hỏi Bị cáo “Có Heroine không? bán cho năm mươi nghìn”. Bị cáo nói: “Có, đưa tiền đây”. Người đàn ông đưa cho Bị cáo một ờ tiền mệnh giá 50.000 đồng. Bị cáo cầm tiền người đàn ông đưa, lấy gói Heroine vừa mua được, lấy ra một gói Heroine gói bằng nilon màu trắng, miệng hàn kín đưa cho người đàn ông. Người đàn ông cầm gói Heroine Bị cáo vừa bán rồi đi đâu Bị cáo không biết. Bị cáo cầm tiền 50.000 đồng vừa bán Heroine được ở tay phải, tay trái Bị cáo cầm gói Heroine và đứng dưới cổng nhà Bị cáo. Khi đang đứng ở cổng thì có tổ công tác Công an kiểm tra, phát hiện và thu giữ gói Heroine ở tay trái Bị cáo đang cầm, ở tay phải của Bị cáo thu giữ một tờ mệnh giá 50.000 đồng, là tiền Bị cáo vừa bán Heroine. Tổ công tác mời người chứng kiến theo quy định, sau đó thi hành lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Bị cáo. Qua khám xét không phát hiện thu giữ gì. Sau khi hoàn tất thủ tục, tổ công tác đưa Bị cáo về Công an huyện Đ B để điều tra làm rõ.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 17/7/2020 đã xác định: Số cục bột mầu trắng thu giữ của Lò Thị S là 0,29 gam, trích 0,04 gam gửi giám định. Vật chứng còn lại là 0,25 gam.

Tại bản kết luận giám định số 718/GĐ-PC09 ngày 24/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu cục bột màu trắng gửi giám định trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Thị S gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine. Khối lượng vật chứng thu giữ của Lò Thị S là 0,29 gam. Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 9, Mục IA, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018. Không hoàn lại đối tượng giám định.

Tại bản cáo trạng số 249/CT-VKSĐB ngày 01/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B truy tố bị cáo Lò Thị S về tội: Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 251/BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên giữ nguyên quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: Khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS.

Xử phạt Bị cáo: Từ 02 năm 03 tháng tù đến 02 năm 06 tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với Bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47/Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106/BLTTHS.

Tịch thu tiêu hủy: 0,29 gam Heroine, trích 0,04 gam gửi giám định. Vật chứng còn lại là 0,25 gam Heroine.

Do Cơ quan tiến hành tố tụng không chứng minh được số 50.000 đồng do Bị cáo bán ma túy mà có. Vì vậy trả lại cho Bị cáo số tiền 50.000 đồng.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án miễn 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm cho Bị cáo.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố.

Lời nói sau cùng của Bị cáo trước khi HĐXX nghị án: Bị cáo đã thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho Bị cáo để Bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của Bị cáo:

Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Lò Thị S khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng; Kết luận giám định, Kết luận điều tra, các bản cung, biên bản ghi lời khai, bản tự khai có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố đối với Bị cáo, có đủ cơ sở khẳng định: Hồi 09 giờ 25 phút, ngày 17/7/2020 tại khu vực bản X, xã T A, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên tổ công tác của Công an huyện Đ B phối hợp với Công an xã T A, huyện Đ B đã phát hiện và bắt quả tang Lò Thị S có hành vi cất giấu trái phép trên người 0,29 gam Heroine nhằm mục đích bán lẻ kiếm lời. Hành vi của Bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, vi phạm pháp luật. Hành vi nêu trên của Bị cáo có đủ các yếu tố cấu thành tội "Mua bán trái phép chất ma túy" quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Điều 251 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma tuý, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo thực hiện hành vi do lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, khẳng định Viện kiểm sát truy tố Bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điều luật đã viện dẫn ở trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không bị oan sai.

[2] Về tính chất của vụ án: Vụ án thuộc trường hợp nghiêm trọng. Hành vi cất giấu trái phép chất ma túy nhằm mục đích để bán lẻ kiếm lời của Bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây mất trật tự tại địa phương, gây dư luận xấu trên địa bàn. Mặt khác ma túy là hiểm họa của loài người, là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, Bị cáo thiếu ý thức chấp hành pháp luật. Chính vì vậy Bị cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội mà mình đã gây ra. Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với Bị cáo để giáo dục Bị cáo trở thành công dân tốt và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

 [3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của Bị cáo:

- Tình tiết tăng nặng: Bị cáo Lò Thị S không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Ngoài ra Bị cáo có Bố đẻ được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhất nên Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Về nhân thân: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại Điện Biên, không được đi học. Năm 1984 Bị cáo kết hôn với Quàng Văn K, sinh năm 1963 có với nhau 02 người con chung, sau đó ly hôn. Đến năm 1991 Bị cáo kết hôn với Lò Văn B, sinh năm 1965, có với nhau 03 người con chung.

Ngày 10/3/2010 Bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên xử 24 tháng tù về tội "Vận chuyển, tàng trữ trái phép chất ma túy". Ngày 31/8/2011 Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên cấp giấy chứng nhận đặc xá số 02. Đặc xá miễn chấp hành hình phạt tù cho người bị kết án phạt tù được hoãn chấp hành hình phạt.

Việc đề nghị áp dụng hình phạt của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đối với Bị cáo là có căn cứ nên HĐXX cần chấp nhận.

Ngoài hình phạt chính Bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Nhưng xét thấy Bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, thu nhập chủ yếu dựa vào lao động sản xuất nông nghiệp ngoài ra không có thu nhập nào khác, nên không có khả năng thi hành. Do vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với Bị cáo.

[4] Về vật chứng vụ án: Tch thu tiêu hủy: 0,29 gam Heroine, trích 0,04 gam gửi giám định. Vật chứng còn lại là 0,25 gam Heroine.

Trả lại cho Bị cáo số tiền 50.000 đồng không liên quan đến hành vi phạm tội của Bị cáo.

[5] Các vấn đề khác:

Bị cáo khai nguồn gốc số ma túy Cơ quan điều tra thu giữ do Bị cáo mua của một người đàn ông dân tộc Thái khoảng 30 tuổi (không biết tên, tuổi, địa chỉ ở đâu) Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không đề cập nên Hội đồng xét xử không xem xét xử lý.

Đối với người đàn ông đã mua ma túy của Bị cáo. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Bị cáo khai nhận trước khi bị bắt, Bị cáo đã bán ma túy cho 01 người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ thu được số tiền 50.000 đồng, tuy nhiên do không xác định được lai lịch của người đàn ông trên nên không đủ cơ sở chứng minh, đấu tranh làm rõ Bị cáo đã bán ma túy và thu tiền. Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không đề cập nên Hội đồng xét xử không xem xét xử lý.

[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của của quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng:

Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Cơ quan truy tố, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

[7] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án miễn 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm cho Bị cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng: Khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tu ên b : Bị cáo Lò Thị S phạm tội: "Mua bán trái phép chất ma túy".

Xử phạt Bị cáo: 02 năm 03 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (17/7/2020).

2. Về vật chứng vụ án:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS và điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 BLTTHS:

* Tịch thu tiêu hủy: 0,29 gam Heroine, trích 0,04 gam gửi giám định. Vật chứng còn lại là 0,25 gam Heroine.

* Trả lại cho Bị cáo số tiền 50.000 đồng không liên quan đến hành vi phạm tội của Bị cáo.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/10 /2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ B và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ B, tỉnh Điện Biên).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án miễn 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm cho Bị cáo.

4. Về qu ền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 27/2020/HS-ST ngày 24/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:27/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;