Bản án 27/2020/HNGĐ-ST ngày 03/06/2020 về xin ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 27/2020/HNGĐ-ST NGÀY 03/06/2020 VỀ XIN LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 03 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 63/2020/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 01 năm 2020, về tranh chấp ly hôn và nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2020/QĐXX-ST ngày 24 tháng 4 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 17/2020/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 5 năm 2020 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Huỳnh Mỹ X, sinh năm 1987; Địa chỉ: ấp Tân T, xã Giục T, huyện Châu Th, tỉnh K G. (Chị X có mặt tại phiên tòa).

* Bị đơn: Anh Lê Thanh T, sinh năm 1980; Địa chỉ: ấp Tân T, xã Giục T, huyện Châu Th, tỉnh K G. (Anh T vắng mặt lần 2 không lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 06-01-2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Huỳnh Mỹ X trình bày: Vào năm 2008, chị và anh Lê Thanh T được người khác mai mối và được sự đồng ý của cha mẹ hai bên nên anh chị cùng nhau đi đến hôn nhân, trên cơ sở hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại UBND xã Giục Tượng, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang và được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 27-6-2016.

Cuộc sống chung vợ chồng lúc đầu hạnh phúc nhưng sau đó thời gian đến năm 2018 thì vợ chồng thường X xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng luôn bất đồng quan điểm với nhau trong cuộc sống, thường hay xảy ra cự cải, không hợp nhau về tính tình và cách sống. Anh T không quan tâm chăm sóc cho gia đình mặc dù chị đã khuyên anh T nhiều lần nhưng không thay đổi từ đó làm ảnh hưởng cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc nữa. Vợ chồng chị đã sống ly thân từ năm 2018 cho đến nay.

Nay chị xét thấy không còn tình cảm với anh T nữa nên quyết định ly hôn với anh Lê Thanh T.

Về con chung: Trong quá trình chung sống chị và anh T có 04 người con chung tên Lê Thị Huỳnh G, sinh ngày 01-9-2004; Lê Ngọc Th, sinh ngày 12-8-2007; Lê Ngọc Th1, sinh ngày 18-01-2012 và Lê Minh Th2, sinh ngày 02-3-2018 hiện nay các con đang sống cùng với chị.

Về tài sản chung và nợ chung: Trong quá trình chung sống vợ chồng chị không có tạo lập được tài sản gì chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết còn về phần nợ thì vợ chồng cũng không có nợ ai nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại đơn khởi kiện ngày 06-01-2020 chị có yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con nhưng nay chị thay đổi chỉ yêu cầu được nuôi dưỡng các con và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con, đây là sự tự nguyện của chị và cam kết không khiếu nại về sau.

Tại phiên tòa, chị Huỳnh Mỹ X yêu cầu:

- Về hôn nhân: Xin ly hôn với anh Lê Thanh T.

- Về con chung: Yêu cầu được chăm sóc, nuôi dưỡng các con tên Lê Thị Huỳnh G, sinh ngày 01-9-2004; Lê Ngọc Th, sinh ngày 12-8-2007; Lê Ngọc Th1, sinh ngày 18-01-2012 và Lê Minh Th2, sinh ngày 02-3-2018 và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

- Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Toà án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Toà án giải quyết Bị đơn anh Lê Thanh T đã được Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Thông báo hoãn phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa nhưng anh T đều không có mặt.

Theo kết quả xác minh, thu thập chứng cứ tại địa phương như sau: Tại biên bản v/v hòa giải đơn xin ly hôn ngày 07-8-2019 tại trụ sở ấp Tân Tiến ( BL : 9,10 ) anh Lê Thanh T có ý kiến trình bày : “ ... vợ tôi muốn ly hôn thì tôi không có ý kiến gì tôi chấp nhận theo ý kiến của vợ tôi đồng ý ly hôn. Còn chuyện gia đình hàng ngày tôi cũng lo làm ăn để nuôi con khôn lớn nhưng thời gian gần đây tôi cũng có đi chơi với anh em có thiếu quan tâm nhưng vợ tôi không thông cảm cương quyết ly hôn thì tôi đồng ý .

Ý kiến của vợ tôi nhận nuôi con và phân chia tài sản tôi đồng ý không có ý kiến gì khác...” Tại phiên tòa chị X vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với anh T. Anh T vắng mặt không lý do.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã thực hiện đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Đối với nguyên đơn là chị X: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71 và 234 của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với bị đơn là anh T: Đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc G nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhiều lần nhưng đều không có mặt; tại phiên tòa, anh T tiếp tục vắng mặt không có lý do chính đáng. Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo hướng chấp nhận toàn bộ đơn khởi kiện của chị X.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ và toàn diện chứng cứ, ý kiến của đương sự. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn chị X khởi kiện tranh chấp xin ly hôn với bị đơn anh Lê Thanh T có hộ khẩu thường trú ấp Tân Tiến, xã Giục Tượng, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang.

Tòa án nhân dân huyện Châu Thành đã triệu tập hợp lệ anh T đến phiên tòa lần thứ hai nhưng anh T vẫn tiếp tục vắng mặt. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt anh T là phù hợp theo quy định pháp luật.

[2] Về hôn nhân: Chị X và anh T kết hôn trên cơ sở tự nguyện. Có đăng ký kết hôn năm 2016 tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống anh chị phát sinh mâu thuẫn, theo chị X nguyên nhân là do tính cách và quan điểm sống giữa hai vợ chồng không phù hợp, anh T sống thiếu trách nhiệm với vợ con và gia đình.Thực tế chị X và anh T đã sống trong tình trạng ly thân trong thời gian dài, không ai quan tâm đến ai. Quá trình giải quyết vụ án, anh T không có mặt theo thông báo để Tòa án tiến hành hòa giải, thể hiện anh không có thiện chí để giải quyết mâu thuẫn vợ chồng và tại phiên tòa hôm nay mặc dù anh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng anh T vẫn vắng mặt không lý do. Mặc khác, tại biên bản hòa giải ngày 07-8-2019 của Tổ hòa giải ấp Tân Tiến ghi nhận ý kiến anh T xác nhận trong cuộc sống hôn nhân anh thiếu quan tâm chăm sóc cho gia đình và anh đồng ý ly hôn với chị X. Tại biên bản xác minh ngày 16-3-2020 ( BL: 35) Ban lãnh đạo ấp Tân Tiến cũng xác nhận anh T sống ở địa phương thường hay uống rượu không chăm lo cho gia đình, vợ chồng anh T thường X xảy ra cự cải và sau đó chị X bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống cho đến nay. Xét thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng chị X, anh T đã kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, chị X yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh T để ổn định cuộc sống. Căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị X, xử cho chị X được ly hôn anh T là hoàn toàn phù hợp theo quy định pháp luật.

[3] Về quan hệ con chung: Chị X xác nhận trong thời gian chung sống anh chị có 04 người con chung tên Lê Thị Huỳnh G, sinh ngày 01-9-2004; Lê Ngọc Th, sinh ngày 12-8-2007; Lê Ngọc Th1, sinh ngày 18-01-2012 và Lê Minh Th2, sinh ngày 02-3-2018, từ khi vợ chồng sống ly thên với nhau cho đến nay các con sống chung với chị. Tại phiên tòa hôm nay chị X yêu cầu được tiếp tục chăm sóc , nuôi dưỡng tất cả các con. HĐXX nhận định từ khi chị X và anh T sống ly thân với nhau từ năm 2018 cho đến nay các con đều do chị X chăm sóc nuôi dưỡng, mặt khác tại biên bản hòa giải ngày 07-8-2019 của Tổ hòa giải ấp Tân Tiến anh T cũng đã đồng ý giao các con cho chị X nuôi dưỡng, do đó căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh thực tế của đương sự, cần tiếp tục giao các con cho chị X trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng phù hợp theo quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình và cũng phù hợp theo nguyện vọng của con, nên HĐXX chấp nhận.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, HĐXX đã giải thích cho chị X về quyền yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi các con cho đến khi đủ 18 tuổi theo quy định của pháp luật nhưng chị X xác định không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi các con và việc chị X không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con là hoàn toàn tự nguyện nên HĐXX không xem xét.

Người trực tiếp nuôi con phải tạo điều kiện để người không trực tiếp nuôi con thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung. Trường hợp cần thiết, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặc của con, các đương sự có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi quyền nuôi con, cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

[5] Về tài sản chung: Chị X xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[6] Về nợ chung: Chị X cam kết không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[7] Xét lời trình bày của đại diện viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, do đó Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì chị X phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên; 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

 - Khoản 1 Điều 28, điêm a khoan 1 Điêu 35, điêm a khoan 1 Điêu 39, Khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình;

- Điểm a khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Huỳnh Mỹ X và anh Lê Thanh T.

2. Về con chung: Giao các con tên : Lê Thị Huỳnh G, sinh ngày 01-9-2004; Lê Ngọc Th, sinh ngày 12-8-2007; Lê Ngọc Th1, sinh ngày 18-01-2012 và Lê Minh Th2, sinh ngày 02-3-2018 cho chị X trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng (phụ hợp theo nguyên vọng của các con). Chị X không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi các con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Anh Lê Thanh T có quyền và nghĩa vụ thăm các con không ai có quyền cản trở.

3. Về tài sản chung: Chị Huỳnh Mỹ X xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về nợ chung: Chị Huỳnh Mỹ X xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

5. Về án phí: Chị Huỳnh Mỹ X phải chịu tiền án phí sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) nhưng chị X được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng đã nộp theo biên lai số 0002121 ngày 06 tháng 01 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang; chị X không phải nộp thêm.

“ Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa Thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014”.

6. Chị X có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 27/2020/HNGĐ-ST ngày 03/06/2020 về xin ly hôn và nuôi con

Số hiệu:27/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;