Bản án 27/2020/DS-ST ngày 29/09/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 27/2020/DS-ST NGÀY 29/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 29 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 198/2020/TLST-DS ngày 03 tháng 7 năm 2020 về Tranh chấp hợp đồng tín dụng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 198/QĐXXST-DS ngày 04 tháng 9 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số: 56/2020/QĐST-DS ngày 14 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP A

Địa chỉ trụ sở: Lầu B, 266-268 đường N, phường C, quận D, thành phố Hồ Chí Minh

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn Nhật T, chức vụ: Chuyên viên khách hàng cá nhân theo Văn bản ủy quyền số 3903/2019/GUQ-PL ngày 16/12/2019 của Tổng giám đốc và Văn bản ủy quyền số 300/2020/UQ-CNĐN ngày 29/9/2020 của Giám đốc Chi nhánh Đà Nẵng, địa chỉ liên hệ: 130A-130-132 đường B, quận H, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.

- Bị đơn: Ông Trần Nhật T, sinh năm: 1988

Địa chỉ: 20 đường N, phường N, quận S, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn đại diện Ngân hàng TMCP A trình bày:

Vào ngày 15/10/2015, ông Trần Nhật T ký với Ngân hàng TMCP A hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng, bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của ngân hàng để mở thẻ loại TCB Motor Card với hạn mức cấp là 15.000.000 đồng. Sau khi thẩm định, ngân hàng đã cấp cho ông Tiến hạn mức sử dụng thẻ là 10.000.000 đồng. Mục đích vay để tiêu dùng cá nhân. Thời hạn sử dụng thẻ 3 năm kể từ ngày Ngân hàng phát hành thẻ cho khách hàng được quy định tại trang thông tin điện tử chính thức S.com.vn tại mục thẻ tín dụng.

Vào ngày 31/01/2016, ông Trần Nhật T có thực hiện giao dịch với số tiền 9.239.100 đồng, đến ngày 31/3/2016 có thực hiện giao dịch tiếp với số tiền 330.000 đồng, tổng cộng là 9.569.100 đồng. Trong quá trình sử dụng thẻ kể từ ngày kích hoạt thẻ cho đến ngày 31/12/2016 ông T đã thanh toán cho ngân hàng số tiền 3.670.000 đồng. Sau đó thì khách hàng không thanh toán đúng kỳ hạn cho Ngân hàng mặc dù Ngân hàng đã nhiều lần làm việc, nhắc nhở. Việc ông T không thanh toán đúng hạn đã vi phạm điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng TMCP A tại Điều 23 Mục sử dụng thẻ. Ngày 01/01/2017 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn. Đến ngày 28/02/2017 và ngày 31/3/2017, ông T có thanh toán thêm cho Ngân hàng mỗi đợt là 1.000.000 đồng.

Hiện nay ông Trần Nhật T còn nợ Ngân hàng số tiền gốc là 7.843.541 đồng, tiền lãi trong hạn tính từ ngày 01/01/2017 đến ngày 31/8/2020 với mức lãi suất 2.50%/01 tháng là 8.515.662 đồng, tiền lãi quá hạn được tính từ ngày 01/01/2017 đến ngày 31/8/2020 với mức lãi suất 3.75%/01 tháng, tương đương 150% mức lãi suất trong hạn là 4.776.894 đồng, tổng cộng gốc là lãi: 21.136.097 đồng.

Nay ngân hàng yêu cầu ông T thanh toán số tiền gốc và lãi trong hạn, tổng cộng là 16.359.203 đồng, đối với tiền lãi quá hạn thì ngân hàng không yêu cầu, lãi suất tiếp tục phát sinh kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm theo mức lãi suất các bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.

- Bị đơn ông Trần Nhật T đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng và triệu tập hợp lệ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, tuy nhiên ông vẫn vắng mặt, không có ý kiến.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng:

Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã tuân theo đúng pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử.

Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Thư ký đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình được quy định tại khoản 5 Điều 51 Bộ luật tố tụng dân sự.

Từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến thời điểm mở phiên tòa, người tham gia tố tụng là nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng, bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt đã không chấp hành các quy định của pháp luật.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng TMCP A, buộc ông Trần Nhật T phải trả cho nguyên đơn số tiền gốc và lãi tính đến ngày 31/8/2020 là 16.359.203 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Sau khi đại diện Viện Kiểm sát phát biểu quan điểm. Sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

[1.1] . Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” là tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.2]. Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Bị đơn ông Trần Nhật T cư trú tại phường M, quận S, thành phố Đà Nẵng nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.3]. Ông Trần Nhật T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa không có lý do nên Hội đồng xét xử vắng bị đơn theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về nội dung vụ án:

[2.1]. Căn cứ Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 15/10/2015, lịch sử thanh toán, lời khai của đại diện nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì đủ cơ sở xác định ông Trần Nhật T có mở thẻ loại TCB Motor Card tại Ngân hàng TMCP A với hạn mức sử dụng thẻ được cấp là 10.000.000 đồng để sử dụng vào mục đích tiêu dùng cá nhân, hình thức vay tín chấp và không có tài sản bảo đảm, lãi suất trong hạn là 2.50%/01 tháng, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn. Thực hiện hợp đồng tín dụng, ông T đã thực hiện giao dịch thẻ với số tiền 9.569.100 đồng. Từ khi vay cho đến nay, ông Trần Nhật T thanh toán được cho Ngân hàng tổng số tiền 5.670.000 đồng. Ông Trần Nhật T đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ từ ngày 31/12/2016, ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ, toàn bộ khoản nợ chuyển sang quá hạn.

[2.2]. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng, triệu tập hợp lệ ông Trần Nhật T để giải quyết vụ án nhưng ông Trần Nhật T vẫn vắng mặt không có lý do, việc ông T không đến Tòa án trình bày ý kiến phản đối, không tham gia hòa giải, không tham gia phiên tòa cho thấy ông đã từ bỏ quyền chứng minh của mình và phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự..

[2.3]. Căn cứ vào Hợp đồng tín dụng nêu trên, thấy rằng việc ký kết hợp đồng tín dụng giữa các bên là hoàn toàn tự nguyện, hình thức và nội dung hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật nên có giá trị pháp lý làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên được điều chỉnh theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng và các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động cho vay tiêu dùng.

[2.4]. Ông Trần Nhật T đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn là đã vi phạm cam kết trong Hợp đồng tín dụng các bên đã thỏa thuận và Điều 23 của điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng là một phần không tách rời của hợp đồng được công khai tại trang thông tin điện tử chính thức, các điểm giao dịch của Ngân hàng để áp dụng cho các bên đề nghị vay vốn.

Do đó, Ngân hàng TMCP A yêu cầu Tòa án buộc ông Trần Nhật T phải thanh toán toàn bộ số tiền gốc 7.843.541 đồng và tiền lãi từ ngày 01/01/2017 cho đến ngày 31/8/2020 là 8.515.662 đồng, tổng cộng là 16.359.203 đồng và lãi suất tiếp tục phát sinh kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm theo mức lãi suất các bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng là có cơ sở, đúng pháp luật, phù hợp với quy định tại Điều 463, Điều 466 Bộ luật Dân sự, Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng, Điều 7, Điều 8, Điều 13 của Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm, Án lệ số 08/2016/AL ngày 17/10/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng.

[3]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn ông Trần Nhật T phải chịu án phí tranh chấp dân sự có giá ngạch trên số tiền phải trả, hoàn trả cho nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

[4]. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự, nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

[5]. Đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng;

- Điều 463, 466 Bộ luật Dân sự;

- Điều 7, Điều 8, Điều 13 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm;

- Án lệ số 08/2016/AL ngày 17/10/2016 được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17/10/2016 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17/10/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao;

- Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 266, Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” của Ngân hàng TMCP A đối với ông Trần Nhật T.

1. Buộc ông Trần Nhật T phải thanh toán cho Ngân hàng TMCP A số tiền 16.359.203 đồng (Mười sáu triệu, ba trăm năm mươi chín nghìn, hai trăm lẻ ba đồng). Trong đó:

Tiền gốc là 7.843.541 đồng;

Tiền lãi là 8.515.662 đồng (tính đến 31/8/2020).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất do các bên thỏa thuận trong Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 15/10/2015. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của ngân hàng cho vay.

2. Án phí dân sự sơ thẩm:

Ông Trần Nhật T phải chịu 817.960đ (Tám trăm mười bảy nghìn, chín trăm sáu mươi đồng)

Ngân hàng TMCP A không chịu án phí, hoàn trả cho Ngân hàng TMCP A số tiền tạm ứng án phí 489.431đ (Bốn trăm tám mươi chín nghìn, bốn trăm ba mươi mốt đồng) đã nộp theo biên lai thu số: 0006180 ngày 01 tháng 7 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận S, thành phố Đà Nẵng.

3. Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

353
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 27/2020/DS-ST ngày 29/09/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:27/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Sơn Trà - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;