Bản án 27/2019/HS-PT ngày 20/02/2019 về tội trộm cắp và lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 27/2019/HS-PT NGÀY 20/02/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP VÀ LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương mở phiên toà xét xử vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 215/2018/TLPT-HS ngày 28 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo Vũ Văn H. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 295/2018/HS-ST ngày 16 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương.

Bị cáo có kháng cáo: Vũ Văn H, sinh năm 1975, tại tỉnh Phú Thọ; nơi cư trú: Khu 1, xã X, huyện B, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Đình D, sinh năm1954 và bà Cao Thị B, sinh năm 1953; bị cáo có vợ tên Ngô Thị Hồng T, sinh năm 1979 và có 02 con (lớn sinh năm 1997, nhỏ sinh năm 2002); tiền sự: Không;

Tiền án:

- Ngày 18/02/2004 bị Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Phú Thọ xử phạt 15 (mười lăm) tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2004/HSST, chấp hành xong hình phạt ngày 13/12/2004.

- Ngày 26/5/2008 bị Tòa án nhân dân huyện (nay là thị xã) U, tỉnh Bình Dương xử phạt 09 (chín) tháng tù về tội “Đánh bạc” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 63/2008/HSST, chấp hành xong hình phạt 23/7/2009.

- Ngày 07/8/2009 bị Tòa án nhân dân huyện (nay là thị xã) U, tỉnh Bình Dương xử phạt 30 (ba mươi) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 78/2009/HSST, chấp hành xong hình phạt ngày 26/6/2011.

- Ngày 21/5/2013 bị Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Phú Thọ xử phạt 39 (ba mươi chín) tháng tù về tội “Lưu hành tiền giả” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2013/HSST, chấp hành xong hình phạt ngày 18/3/2017.

Nhân thân:

- Ngày 05/6/2018 bị Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Dương xử phạt 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 67/2018/HSST.

Ngoài ra, trong vụ án còn có bị hại ông Đoàn Xuân H do không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 14/12/2017 do không có tiền tiêu xài nên Vũ Văn H nảy sinh ý định đi tìm tài sản trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài. Để thực hiện ý định trên, Vũ Văn H điều khiển xe mô tô biển số 54V8 – 9535 đi đến khu vực thành phố T, tỉnh Bình Dương để tìm tài sản trộm cắp. Khi Vũ Văn H điều khiển xe mô tô biển số 54V8 – 9535 đến phía trước cửa hàng sơn K tại số 194, khu phố 8, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương do ông Đào Xuân H, sinh năm 1944, (ngụ cùng địa chỉ trên) làm chủ. Lúc này, Vũ Văn H đi vào bên trong cửa hàng sơn K thì gặp ông Đào Xuân H, Vũ Văn H kêu ông Đào Xuân H bán cho Vũ Văn H 01 thùng sơn nước thì ông Đào Xuân H đồng ý. Cùng lúc, ông Đào Xuân H đi vào trong nhà lấy sơn cho Vũ Văn H. Lúc này, Vũ Văn H quan sát thấy chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Motorola màu đen đang để trên ghế gần chỗ Vũ Văn H đang đứng. Liền đó, Vũ Văn H đi đến lấy trộm chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Motorola-màu đen bỏ vào túi quần rồi nhanh chóng đi ra ngoài lên xe mô tô tẩu thoát. Khi ông Đào Xuân H lấy thùng sơn đưa ra để bán cho Vũ Văn H, ông Đào Xuân H phát hiện Vũ Văn H đã lấy trộm chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Motorola màu đen nên ông Đào Xuân H liền điều khiển xe mô tô đuổi theo Vũ Văn H nhưng không đuổi kịp. Ngay lúc đó, ông Đào Xuân H điện thoại nhờ các thành viên câu lạc bộ phòng chống tội phạm phường P, thành phố T truy tìm Vũ Văn H. Đến khoảng 13 giờ 00 phút ngày 14/12/2017, khi Vũ Văn H điều khiển xe mô tô biển số 54V8 – 9535 đi đến khu vực phường L, thị xã C, tỉnh Bình Dương thì bị lực lượng phòng chống tội phạm phường P phát hiện, bắt giữ Vũ Văn H cùng tang vật, giao cho Công an phường P, thị xã C, tỉnh Bình Dương xử lý, đồng thời thu giữ: 01 xe mô tô biển số 54V8 – 9535; 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Motorola-màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia; 01 chứng minh nhân dân và 01 giấy phép lái xe hạng A1 mang tên Vũ Văn H; 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 54V8 – 9535.

Tại công an phường L, thị xã C, tỉnh Bình Dương, Vũ Văn H khai nhận: Ngày 13/11/2017, Vũ Văn H đã thực hiện hành vi Lừa đảo chiếm đoạt 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Premi tại khu vực thị xã C, tỉnh Bình Dương. Ngày 17/12/2017 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã C, tỉnh Bình Dương ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Vũ Văn H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và bị tạm giam để điều tra. Ngày 05/6/2018, Tòa án nhân dân thị xã C xử phạt bị cáo 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Ngày 18/01/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã C, tỉnh Bình Dương chuyển hồ sơ vụ án Vũ Văn H thực hiện hành vi trộm cắp 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Motorola màu đen tại cửa hàng sơn K. Địa chỉ: Số 194, khu phố 8, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương vào ngày 14/12/2017, đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T, tỉnh Bình Dương để xử lý theo thẩm quyền.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 17/KLTS-TTHS, ngày 29/01/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố T kết luận: 01 chiếc điện thoại Motorola màu đen trị giá 2.500.000 đồng (hai triệu năm trăm ngàn đồng). Ngày 29/01/2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T, tỉnh Bình Dương giao trả chiếc điện thoại Motorola màu đen cho ông Đào Xuân H. Hiện tại, ông Đào Xuân H không có yêu cầu gì đối với Vũ Văn H.

Đối với 01 xe mô tô biển số 54V8 – 9535 do Vũ Văn H sử dụng làm phương tiện phạm tội; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia; 01 Giấy chứng minh nhân dân và 01 Giấy phép lái xe hạng A1 mang tên Vũ Văn H; 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 54V8 – 9535 đã được xử lý tại Bản án hình sự sơ thẩm số 67/2018/HS-ST ngày 05/6/2018 của Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Dương đối với Vũ Văn H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 139 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số 295/2018/HS-ST ngày 16/11/2018 của Toà án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương đã quyết định:

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 56 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố bị cáo Vũ Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Vũ Văn H 02 (hai) năm 06 (tháng) tù. Tổng hợp hình phạt 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” tại Bản án hình sự sơ thẩm số 67/2018/HSST ngày 05/6/2018 của Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Dương buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 05 (năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/12/2017.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp, án phí và quyền kháng cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 20/11/2018, bị cáo Vũ Văn H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa trình bày quan điểm giải quyết vụ án: Về tố tụng, bị cáo kháng cáo trong thời gian quy định nên Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm để xem xét giải quyết kháng cáo của bị cáo là có cơ sở, đúng quy định của pháp luật. Về yêu cầu kháng cáo của bị cáo, sau khi xem xét hành vi phạm tội, nhân thân, các tiền án, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử bị cáo Vũ Văn H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi của bị cáo. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không cung cấp tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới theo quy định của pháp luật. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên quyết định của bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương.

Tại phiên tòa, bị cáo Vũ Văn H khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản án sơ thẩm và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Trong lời nói sau cùng, bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 14/12/2017, tại cửa hàng sơn K, số 194, khu phố 8, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương, Vũ Văn H đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Motorola, màu đen của ông Đoàn Xuân H có trị giá 2.500.000 đồng (theo Bản kết luận định giá tài sản số 17/KLTS-TTHS ngày 29/01/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố T). Đồng thời, bị cáo đã bị kết án 04 lần về các tội danh “Chống người thi hành công vụ”, “Đánh bạc”, “Trộm cắp tài sản”, “Lưu hành tiền giả”, đều chưa được xóa án tích nay lại phạm tội mới do lỗi cố ý.

Tại Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định:

“1.Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá trừ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

g) Tái phạm nguy hiểm

…”.

Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Vũ Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” và áp dụng tình tiết “Tái phạm nguy hiểm” làm tình tiết định khung hình phạt đối với bị cáo theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có cơ sở, đúng người, đúng tội.

[2] Hành vi lén lút chiếm đoạt điện thoại di động của bị cáo Vũ Văn H là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ. Bản thân của bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Về nhận thức, bị cáo Vũ Văn H biết rõ hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại là hành vi trái pháp luật nhưng vì động cơ tham lam, tư lợi mà bị cáo bất chấp hậu quả vẫn thực hiện hành vi phạm tội.

[3] Đối với kháng cáo của bị cáo về việc xin giảm nhẹ hình phạt, Hội đồng xét xử xét thấy, khi quyết định hình phạt đối với bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo (bị cáo có 04 (bốn) tiền án, sau khi chấp hành xong hình phạt nhưng chưa xóa án lại phạm tội mới) và áp dụng mức hình phạt 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù là không nặng, tương xứng với hành vi, mức độ phạm tội của bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên Hội đồng xét xử không có cơ sở chấp nhận kháng cáo để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 295/2018/HS-ST ngày 16/11/2018 của Toà án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương.

[4] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương về việc giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Các phần khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[6] Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Vũ Văn H phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;

1/ Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vũ Văn H; giữ nguyên quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 295/2018/HS-ST ngày 16/11/2018 của Toà án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 56 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Vũ Văn H 02 (hai) năm 06 (tháng) tù về tội “Trộm cắp tài sản”.Tổng hợp hình phạt 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” tại Bản án hình sự sơ thẩm số 67/2018/HSST ngày 05/6/2018 của Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Dương buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 05 (năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/12/2017.

2/ Về án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Vũ Văn H phải nộp 200.000 đồng.

3/ Các phần khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

408
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 27/2019/HS-PT ngày 20/02/2019 về tội trộm cắp và lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:27/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;