Bản án 27/2018/HNGĐ-ST ngày 28/06/2018 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN U MINH THƯỢNG,TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 27/2018/HNGĐ-ST NGÀY 28/06/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG

Ngày 28 tháng 6 năm 2018 tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 55/2018/TLST- HNGĐ, ngày 09 tháng 4 năm 2018 về việc “Tranh chấp ly hôn và nuôi con chung” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2018/QĐXXST-HNGĐ, ngày 25 tháng 5 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 18/2018/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 6 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Cẩm Y, sinh năm 1983.

Địa chỉ cư trú: Ấp ĐD, xã TY, huyện U, tỉnh Kiên Giang. (có mặt tại phiên tòa)

2. Bị đơn: Ông Trần Hoàng X, sinh năm 1985.

Địa chỉ cư trú: Ấp ĐD, xã TY, huyện U, tỉnh Kiên Giang. (vắng mặt tạiphiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện vụ án ly hôn đề ngày 29 tháng 3 năm 2018 và các lời khai tại Tòa án nhân dân huyện U Minh Thượng, Nguyên đơn bà nguyễn Thị Cẩm Y trình bày:

Về hôn nhân: Năm 2006 bà Nguyễn Thị Cẩm Y và ông Trần Hoàng X được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục, tập quán địa phương, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TY, huyện AB (nay thuộc huyện U), tỉnh Kiên Giang vào ngày 31/8/2006. Bà Y và ông X chung sống được 10 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, ông X không có trách nhiệm với vợ, con, bạo lực gia đình. Bà Y và ông X sống ly thân từ ngày 20/3/2018 đến nay. Cuộc sống hôn nhân của bà Y và ông X không còn hạnh phúc, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, nên bà Y yêu cầu được ly hôn với ông X.

Về con chung: Bà Y và ông X có 01 người con chung tên Trần Thị Cẩm Ph, sinh ngày 23/11/2008, giới tính nữ, đang sống với bà Y. Khi ly hôn bà Y yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông X cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà Y cho rằng trong quá trình chung sống giữa bà và ông X không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Trần Hoàng X vắng mặt tại phiên tòa nên không có lời trình bày.

Tại phiên tòa: Bà Y giữ nguyên yêu cầu được ly hôn với ông X; yêu cầu tiếp tục nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông X cấp dưỡng nuôi con; tài sản chung và nợ chung không có, không yêu cầu giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Trần Hoàng X được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai tham gia phiên tòa xét xử, nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử thống nhất xét xử vắng mặt ông X.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Y và ông X kết hôn cơ sở tự nguyện, được bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục, tập quán địa phương vào năm 2006. Đăng ký kết hôn tại tại Ủy ban nhân dân xã TY, huyện AB (nay thuộc huyện U), tỉnh Kiên Giang vào ngày 31/8/2006. Nên quan hệ hôn nhân giữa bà Y và ông X là hợp pháp.

 [3] Xét yêu cầu ly hôn của nguyên đơn: Bà Y yêu cầu ly hôn với ông X, vì cho rằng vợ chồng bất đồng quan điểm sống, ông X không có trách nhiệm với vợ, con, bạo lực gia đình.

Ông X đã nhận được Thông báo thụ lý vụ án, và Thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải của Tòa án, nhưng ông X không có ý kiến với yêu cầu khởi kiện ly hôn của bà Y. Đồng thời tại các phiên hòa giải ông X đều vắng mặt.

Xét thấy mâu thuẫn giữa bà Y và ông X kéo dài từ năm 2016 nhưng hai bên không có biện pháp để hàn gắn tình cảm. Từ ngày 20/3/2018 bà Y và ông X sống ly thân đến nay. Tại phiên tòa xét xử bà Y vẫn giữ nguyên yêu cầu được ly hôn với ông X.

Từ những phân tích trên Hội đồng xét xử nhận thấy đời sống hôn nhân của bà Y và ông X đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà Y được ly hôn với ông X.

[4] Về con chung: Khi ly hôn bà Y yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng Trần Thị Cẩm Ph. Xét thấy cháu Ph đang sống với bà Y, hiện tại bà Y buôn bán cửa hàng tạp hóa tại Chợ S (huyện U) thu nhập hàng tháng từ 8.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng, đảm bảo đủ điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng con. Mặt khác tại bản tự khai cháu Ph cũng có nguyện vọng được sống với bà Y.

Căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử thống nhất giao cháu Ph cho bà Y trực tiếp nuôi dưỡng. Bà Y không yêu cầu ông X cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Bà Y và các thành viên gia đình không được cản trở ông X trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung. Ông X không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung của bà Y.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Y cho rằng bà và ông X không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [6] Về án phí sơ thẩm: Bà Y phải chịu án phí hôn nhân và gia đình là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 56, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điều 6, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho bà Nguyễn Thị Cẩm Y được ly hôn với ông Trần Hoàng X.

2. Về con chung: Giao Trần Thị Cẩm Ph, sinh ngày 23/11/2008, giới tính nữ cho bà Y trực tiếp nuôi dưỡng (cháu Ph đang sống với bà Y).

Bà Y không yêu cầu ông X cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Bà Y và các thành viên gia đình không được cản trở ông X trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung. Ông X không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung của bà Y.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Y cho rằng bà và ông X không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Cẩm Y phải chịu án phí hôn nhân và gia đình là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà Y đã nộp là 300.000đ(Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0006873, ngày 02/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang.

5. Quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại Tòa án nhân dân huyện U Minh Thượng và Ủy ban nhân dân xã TY, huyện U, tỉnh Kiên Giang.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 27/2018/HNGĐ-ST ngày 28/06/2018 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung

Số hiệu:27/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện U Minh Thượng - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;