Bản án 27/2018/HNGĐ-ST ngày 22/05/2018 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 27/2018/HNGĐ-ST NGÀY 22/05/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 22 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Long Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 792/2017/TLST – HNGĐ ngày 22 tháng 12 năm 2017 về tranh chấp ly hôn theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2018/QĐXX ngày 04 tháng 5 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị H , sinh năm 1975

HKTT: PA, Khu tập thể B, ngõ C Đội C, Phường L, quận Ba Đình, TP HNội

Trú tại: Số A ngõ B, ngách C, phường Đg, quận Long Biên, TP HNội

2. Bị đơn: Anh Đào Thƣợng K, sinh năm 1973

HKTT và hiện trú tại: Số C, ngõ B, ngách C, phường Đ, quận Long Biên, TP Hà Nội (Chị H và anh K có mặt tại phiên toà)

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Theo đơn khởi kiện và các lời khai tại Toà án, nguyên đơn, chị Hoàng Thị H trình bày:

Chị và anh Đào Thượng K kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại UBND phường Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội năm 2005.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại tổ 20, phường Đức Giang, Long Biên, Hà Nội. Quá trình chung sống đến năm 2012 thì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn căng thẳng. Nguyên nhân là do anh K có quan hệ ngoại tình, chị đã khuyên can nhiều lần nhưng anh K không thay đổi. Anh K hứa xong lại vẫn tiếp tục đi nhiều hơn, vắng như thường xuyên hơn, không quan tâm đến gia đình vợ con. Chị hiện nay sống cùng như với anh K nhưng khoảng 7 đến 8 tháng nay vợ chồng chị không ăn cơm cùng với nhau. Chị về nHchỉ là để chăm con. Kinh tế hai bên đều độc lập, không ai quan tâm tới ai. Tình cảm vợ chồng vì thế ngày càng căng thẳng rạn nứt dần dần mất hẳn tình cảm với nhau. Đến nay vợ chồng không còn cơ hội để đoàn tụ, vợ chồng đã ly thân được 6 năm. Tháng 10 năm 2017, chị Hđã làm đơn xin ly hôn đề nghị Tòa án nhân dân quận Ba Đình giải quyết. Đến tháng 11 năm 2017, TAND quận Ba Đình đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hôn nhân gia đình do chị xin rút yêu cầu xin ly hôn vì trong quá trình giải quyết anh K không đồng ý giải quyết tại Tòa án nơi chị đang cư trú. Tháng 12 năm 2017, chị lại tiếp tục làm đơn ly hôn gửi đến Tòa án nhân dân quận Long Biên. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn. Chị xin được ly hôn.

Về con chung: Anh chị có 02 con chung là cháu Đào Khánh L, sinh ngày 08/11/2006 và cháu Đào Nguyên K, sinh ngày 05/9/2010. Nguyện vọng của chị xin được nuôi cả hai con, nhưng chị tôn trọng quyền quyết định lựa chọn của cháu L. Nếu cháu L xin ở với bố chị cũng đồng ý. Đối với cháu K, cháu đang còn nhỏ lại bị mắc hội chứng tự kỷ nên chị đề nghị xin được trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc cháu K và không yêu cầu anh K đóng góp phí tổn nuôi con chung. Hiện nay chị đang làm việc tại Báo Phụ nữ Việt Nam, thu nhập trung bình là 20.000.000đ 1/ tháng.

- Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Toà án xem xét và giải quyết.

- Về công nợ chung: Chị khẳng định không nợ ai và không cho ai vay, nếu sau này phát sinh tranh chấp chị xin tự chịu trách nhiệm trước pháp luật.

*Theo các lời khai tại Toà án, bị đơn, anh Đào Thượng K trình bày:

Tại bản tự khai ngày 01/2/2018, biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai chứng cứ và biên bản hòa giải, anh K hoàn toàn đồng ý về điều kiện và thủ tục kết hôn như chị Hđã trình bày.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống có phát sinh mâu thuẫn nhưng nguyên nhân không đúng với lời trình bầy của chị Hà. Giữa anh và chị Hđã làm đơn thuận tình ly hôn. Anh chỉ đồng ý ly hôn theo như đơn thuận tình ly hôn mà hai bên đã ký kết.

Về con chung: Anh chị có 02 con chung là cháu Đào Khánh L, sinh ngày 08/11/2006 và cháu Đào Nguyên K, sinh ngày 05/9/2010. Nguyện vọng của anh xin được nuôi một cháu hoặc cả hai cháu nếu chị H không muốn nuôi con. Anh muốn được nuôi cháu K để đảm bảo cháu được chữa khỏi bệnh, đảm bảo tương lai tốt nhất cho cháu. Nếu chị Hmuốn nuôi một trong hai con, chị Hphải đảm bảo điều kiện tốt nhất cho con học tập và phát triển như sau:

1. Con phải được học tại trường hiện tại mà cháu đang theo học với các điều kiện tốt nhất về giáo viên và nHtrường mà không được chuyển sang trường khác trong thời gian 3 năm.

2. Con phải được ngủ dậy, được ăn sáng và đi học đúng giờ (đồ ăn phải do chị H chuẩn bị và nấu đảm bảo vệ sinh và không ăn đồ ăn bên ngoài)

3. Các cháu phải được đưa đón đi học và di chuyển bằng ô tô và không được giao con cho bất kể người nào ngoài gia đình đưa đón, trông coi và sinh hoạt để đảm bảo sức khỏe và an toàn cho con.

4. Không được sử dụng thực phẩm công nghiệp như xúc xích, đồ hộp hay những đồ ăn chế biến sẵn mua bên ngoài thường xuyên.

5. Không được sử dụng thực phẩm và sống trong môi trường ảnh hưởng đến bệnh tình con tôi trong quá trình điều trị, can thiệp.

6. Phải nấu ăn và biết nấu ăn đảm bảo dinh dưỡng cho con (tối thiểu 2 bữa/ ngày sáng và tối), đảm bảo con tôi phát triển chiều cao, cân nặng bình thường theo quá trình phát triển của lứa tuổi. Không gầy hay sút cân so với thời gian ở với tôi.

7. Con phải ở nơi ở ổn định và đảm bảo điều kiện nơi ở tốt nhất, phải quét dọn và vệ sinh sạch sẽ nơi ở của con.

8. Phải dành thời gian để dậy học hay tham gia dạy học cho con hàng ngày từ 8 h đến 9 h tối.

9. Phải đón và chăm sóc con sau khi tan học ở trường và có mặt ở nHtrước 18h hoặc 19h hàng ngày.

10. Đảm bảo cho con được học được choi thể thao hàng tuần như bơi, bóng rổ…

11. Cam kết chữa khỏi bệnh tự kỷ tăng động cho con tôi sau 12 đến 18 tháng.

12. Cuối tuần hoặc ngày lễ, ngày nghỉ cả hai bên đều được đón cháu về chơi và chăm sóc tại gia đình mà không được bất kể bên nào cản trở hay gây khó khăn.

13. Nếu chị Hkhông đáp ứng được điều kiện tốt nhất và chữa khỏi bệnh tự kỷtăng động cho cháu K trong thời gian từ 12 đến 18 tháng như trên thì chị Hsẽ từ bỏ quyền nuôi cháu K vì không thể đảm bảo nuôi dậy và chữa bệnh cho cháu tốt. Nếu anh được nuôi cháu K thì anh sẽ đảm bảo chữa khỏi bệnh cho cháu. Nếu anh không chữa khỏi bệnh cho cháu K trong thời gian như trên thì anh sẽ nhường quyền chăm sóc cháu cho chị Hsau thời gian chữa bệnh cho cháu.

- Về tài sản chung và công nợ chung: Anh không yêu cầu Toà án xem xét và giải quyết.

Tại phiên tòa, chị Hxuất trình thêm các tài liệu chứng cứ: giấy xác nhận của Báo phụ nữ Việt Nam, các bài báo đã được đăng theo chị khai do chị viết về hội chứng tự kỷ (các bản photo), 01 usb có chứa hình ảnh về quá trình chị dạy đỗ can thiệp đối với cháu K. Chị trình bầy vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với anh K. Về con chung: chị đồng ý để anh K trực tiếp nuôi dưỡng cháu L theo nguyện vọng của cháu. Đối với cháu K, chị đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng và không yêu cầu anh K đóng góp phí tổn nuôi con chung. Chị hoàn toàn chấp nhận đề nghị của anh K về việc giữ nguyên trường học hiện nay cho cháu K từ 1 đến 2 năm và chị sẽ giành thời gian để chăm sóc cháu.

Tại phiên tòa, anh K xuất trình thêm các chứng cứ sau: chi tiết tiền lương do anh và gia đình trả cho chị Tạ Thị Hằng (6 trang), giấy xác nhận của cô giáo Ly, đơn xác nhận của bà Hợp, đánh giá quá trình học tập của cô Mai, báo cáo kết quả học tập Language Link, báo cáo smart, kết quả đánh giá học kỳ II, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, học bạ tiểu học, kế hoạch can thiệp, trò chơi kỹ năng, luyện con vật và hình ảnh, bộ chữ. Bộ dụng cụ hỗ trợ giảng dậy, bàn tính và đồng hồ thời gian, bộ dụng cụ toán học, bộ số và ký tự 100 (toàn bộ các tài liệu này là bản photo). Anh trình bầy tại phiên tòa: đến nay anh không đồng ý ly hôn. Vợ chồng anh không có mâu thuẫn gì căng thẳng, việc chị Htrình bầy anh ngoại tình là không đúng. Vợ chồng anh vẫn chung sống và quan hệ vợ chồng bình thường, không có việc ly thân 6 năm nay. Anh không biết vì lý do gì mà chị Hlại làm đơn xin ly hôn gửi đến TAND quận Ba Đình và TAND quận Long Biên. Đến nay anh xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn và anh không đồng ý ly hôn. Về con chung: Anh đồng ý nuôi cháu L và không yêu cầu chị H đóng góp phí tổn nuôi con chung. Đối với cháu K anh đồng ý để chị H nuôi nếu chị Hvẫn để cháu K học tại Trường Tiểu học đô thị Sài Đồng it nhất từ 1 đến 2 năm và chị H phải giành thời gian chăm sóc nuôi dưỡng cháu nghiêm túc. Về tài sản chung: anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên tại phiên toà phát biểu ý kiến:

 Về thẩm quyền: Tòa án nhân dân quận Long Biên đã thụ lý và giải quyết vụ án đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

- Thẩm phán lập hồ sơ, xác minh, thu thập chứng cứ, tiến hành giao các văn bản tố tụng và tiến hành trình tự, thủ tục tại phiên tòa đúng quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử tiến hành tố tụng tại phiên tòa đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Người tham gia tố tụng là nguyên đơn và bị đơn đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 56, điều 81,điều 82, điều 83 Luật hôn nhân gia đình và điều 220, điều 266, điều 267 Bộ luật Tố tụng dân sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 đề nghị:

+ Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Hoàng Thị Hvà anh Đào Thượng K.

+ Về con chung: Anh chị có 02 con chung là cháu Đào Khánh L, sinhngày 08/11/2006 và cháu Đào Nguyên K, sinh ngày 05/9/2010. Giao anh K trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc cháu L; giao chị Htrực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cháu K. Không bên nào phải đóng góp phí tổn nuôi con đối với bên nào.

+ Về tài sản chung của anh chị: không có tranh chấp, không có yêu cầugiải quyết.

+ Về án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả diễn biến tại phiên toà, sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về tố tụng: Tại thời điểm thụ lý, chị Hoàng Thị Hcó đơn xin ly hôn với anh Đào Thượng K, địa chỉ: Số 7, ngõ 53, ngách 81 Phố Đức Giang, Long Biên, Hà Nội nên việc TAND quận Long Biên thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 40 BLTTDS.

2. Về nội dung vụ án:

2.1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị Hvà anh Đào Thượng K kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại UBND Phường Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội ngày 09/8/2005. Đây là hôn nhân hợp pháp. 

Tại phiên tòa, chị Hkiên quyết giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh K có quan hệ ngoại tình, chị đã khuyên can anh nhiều lần nhưng anh không thay đổi, tình cảm vợ chồng không còn. Mặc dù sống cùng nHnhưng anh chị đã ly thân từ 6 năm nay. Chị đã không ăn cơm với anh K và gia đình chồng tính đến nay đã khoảng 7 đến 8 tháng. Chỉ đến tối chị mới về dạy và chăm các con, ngoài ra vợ chồng từ lâu không có sự trao đổi với nhau nữa. Kinh tế độc lập, không ai quan tâm tới ai. Tuy nhiên anh K không đồng ý ly hôn do anh xác định vợ chồng không có mâu thuẫn vẫn sống bình thường, hiện nay chị Hvẫn đang sinh sống tại nHanh. Anh cũng không biết lý do vì sao chị Hlại làm đơn xin ly hôn với anh.

Quá trình tố tụng tại Tòa án, cả nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận đã ký đơn thuận tình ly hôn ngày 04/8/2017. Nhưng chị H không nộp đơn thuận tình ly hôn trên mà nộp đơn xin ly hôn đơn phương đến Tòa án nhân dân quận Long Biên. Ngày 01/2/2018, trong buổi hòa giải tại Tòa án, chị Hvà anh K thống nhất thuận tình ly hôn, về con chung: Chị Htrực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc cháu K, anh K trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cháu L; không bên nào phải đóng góp phí tổn nuôi con đối với bên nào; về tài sản chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngày 05/2/2018, anh K gửi đơn đến Tòa án đề nghị hủy bỏ toàn bộ nội dung thỏa thuậngiữa hai anh chị tại Tòa ngày 01/2/ 2018.

Qua xác minh địa phương thể hiện: năm 2017, chị H đã đề nghị tổ dân phố hòa giải việc gia đình chị nhưng anh K và gia đình anh K không đồng ý hòa giải. Ngoài ra, ông Đào Minh Kiểm, bố đẻ của anh K trình bầy: Chị Hhiện nay vẫn sinh sống tại như ông bà. Ba mẹ con chị Hở 1 phòng. Chị Hmấy tháng nay không ăn cơm ở nhà, chỉ về ngủ. Chị Hkhông hề có việc chăm lo vun vén gia đình. Nay anh K chị Hkhông còn tình cảm làm đơn ly hôn đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Tại biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai chứng cứ ngày 01/2/2018, bản thân anh K cũng đã thừa nhận mâu thuẫn vợ chồng không còn cơ hội đề đoàn tụ, vợ chồng không còn tình cảm. Tại phiên tòa, anh trình bầy không có phương án gì để hòa giải. Anh cũng không hiểu vì sao chị Hlại hai lần nộp đơn ly hôn đề nghị Tòa án nhân dân quận Ba Đình và Tòa án nhân dân quận Long Biên để giải quyết. Như vậy, việc anh K trình bầy vợ chồng anh vẫn sống bình thường là không có cơ sở, giữa hai anh chị từ lâu đã không hiểu nhau, không có sự cảm thông chia sẻ, giao tiếp với nhau nên không cảm nhận được sự rạn nứt trong tình cảm vợ chồng.

Xét thấy mâu thuẫn giữa chị H và anh K đã trầm trọng, kéo dài, thực tế cuộc sống chung không tồn tại, tình cảm vợ chồng không còn khả năng để hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H đối với anh K.

2.2. Về con chung: Anh chị có 02 con chung là cháu Đào Khánh L, sinh ngày 08/11/2006 và cháu Đào Nguyên K, sinh ngày 05/9/2010.

Hội đồng xét xử thấy rằng, anh K và chị Hđều có công việc làm và thu nhập ổn định, đều có khả năng và điều kiện nuôi con. Tại Tòa án, cả hai anh chị đều có nguyện vọng xin nuôi con, nên Hội đồng xét xử thấy nên giao cho mỗi anh chị được nuôi một cháu là hợp tình hợp lý. Đối với cháu Đào Nguyên K, hiện nay cháu được Bệnh viện nhi Trung ương chẩn đoán Rối loạn phổ tự kỷ. Cháu K trình bầy nguyện vọng muốn ở với cả bố cả mẹ. Xét thấy anh K và chị H đều đã tự trang bị cho bản thân mình kiến thức về chứng rối loạn phổ tự kỷ, đều cố gắng nỗ lực để chữa trị, can thiệp cho cháu K sớm hòa nhập và theo kịp chương trình giáo dục học đường. Cả hai anh chị đều đủ điều kiện để trực tiếp nuôi dưỡng cháu K. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cũng xem xét cháu K hiện nay còn nhỏ lại mắc hội chứng tự kỷ nên cần sự quan tâm chăm sóc tỉ mỉ, kiên trì. Bản thân chị Hlà người theo sát quá trình can thiệp chữa trị cho cháu K từ khi phát hiện ra cháu mắc hội chứng tự kỷ đến nay. Theo xác minh tại Trường mầm non Thiên đường trẻ thơ và cô giáo trực tiếp dạy cháu K tại trường thể hiện: Cháu K cần sự chăm sóc và rất quấn mẹ. Với tình trạng của cháu, không nên thay đổi nhiều về mặt tâm lý điều này sẽ ảnh hưởng tới quá trình chữa trị của cháu. Cô giáo Nguyễn Thị Khánh Ly là cô giáo chủ nhiệm lớp 2 của cháu K cũng trình bầy: Đối với chương trình nâng cao, khi nào cháu vui cháu có thể tiếp thu được, khi nào cháu bị căng thẳng, cháu tiếp thu chậm hơn. Nếu cháu K ở trong trạng thái tâm lý tốt, môi trường tốt thì sẽ tốt hơn cho sự phát triển của cháu. Tại phiên tòa, chị Hcũng đã cam kết sẽ ổn định việc học tập của cháu K tại Trường Tiểu học đô thị Sài Đồng như hiện nay ít nhất từ 1 đến 2 năm theo yêu cầu của anh K. Anh K cũng đồng ý để chị Htrực tiếp nuôi dưỡng cháu K. Cháu Đào Khánh L, sinh ngày 08/11/2006, cháu có nguyện vọng muốn được ở với bố. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy nên giao cháu L cho anh K trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng và giao cháu K cho chị H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp. Không bên nào yêu cầu đóng góp phí tổn nuôi con đối với bên nào.

* Về tài sản chung: Không có yêu cầu và tranh chấp nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề giải quyết.

* Về án phí: Chị Hphải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147, Điều 271, Điều 273, Điều 278 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

- Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Xử

1. Về hôn nhân:

Cho ly hôn giữa chị Hoàng Thị H và anh Đào Thượng K

2. Về nuôi con chung:

Giao cháu Đào Khánh L, sinh ngày 08/11/2006 cho anh Đào Thượng K trực tiếp nuôi dưỡng.

Giao cháu Đào Nguyên K, sinh ngày 05/9/2010 cho chị Hoàng Thị H trực tiếp nuôi dưỡng.

Tạm hoãn việc đóng góp phí tổn nuôi con chung đối với chị Hoàng Thị H và anh Đào Thượng K cho đến khi cháu Khánh L và cháu Nguyên K thành niên (đủ 18 tuổi) hoặc cho đến khi có yêu cầu khác theo quy định của pháp luật.

Không ai được ngăn cản quyền gặp gỡ và chăm sóc con chung.

3. Tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết

4. Về án phí: Chị Hoàng Thị Hphải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Chị Hđã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai số 6384 ngày 22/12/2017 tại Chi cục thi hành án quận Long Biên. Nay chuyển thành án phí. Án xử công khai sơ thẩm.

Chị Hoàng Thị H và anh Đào Thượng K có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 27/2018/HNGĐ-ST ngày 22/05/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:27/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;