Bản án 27/2018/HNGĐ-ST ngày 14/12/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 27/2018/HNGĐ-ST NGÀY 14/12/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 14 tháng 12 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 278/2018/TLST- HNGĐ ngày 14/9/2018 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2018/QĐXXST- HNGĐ ngày 13 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị Diễm H, sinh năm 1994.

Địa chỉ: Đội 8, xã T, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. (Có mặt)

- Bị đơn: Anh Đặng Hoài N, sinh năm 1982.

Địa chỉ: Số 47, ngõ 810, đường Đ, phố T1, phường T2, thành phố Ninh Bình, tỉnh

Ninh Bình. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa, nguyên đơn trình bày:

Tôi và anh Đặng Hoài N tự nguyện đăng ký kết hôn vào ngày 17/9/2012 tại UBND phường T2, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Sau khi kết hôn một thời gian, chúng tôi nảy sinh mâu thuẫn trầm trọng. Chúng tôi thường xuyên cãi vã và xô xát. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng gặp khó khăn về kinh tế, anh N không chăm lo cho gia đình, không quan tâm đến vợ con, vợ chồng bất đồng quan điểm sống,anh N nhiều lần có thái độ thiếu tôn trọng, xúc phạm đến tôi và gia đình tôi. Chúng tôi đã sống ly thân từ năm 2014 đến nay. Trong thời gian ly thân, anh N không quan tâm, thiếu trách nhiệm với mẹ con tôi. Gia đình cũng đã khuyên bảo vợ chồng đoàn tụ nhưng không có kết quả. Tôi xác định tình cảm vợ chồng không thể hạnh phúc lâu dài nên tôi đề nghị Tòa giải quyết ly hôn giữa tôi và anh Đặng Hoài N.

Chúng tôi có 01 con chung là cháu Đặng Tâm Đ1 sinh ngày 01/10/2013. Hiện nay cháu đang ở với tôi. Tôi đảm bảo bản thân có đủ khả năng để nuôi dưỡng, chăm sóc cho cháu nên tôi đề nghị được nuôi cháu Đ1. Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Tôi không đề nghị Tòa án giải quyết.

Theo báo cáo của trưởng tổ dân phố T1 nơi vợ chồng chị H, anh N cư trú, sinh sống thể hiện: Chị H và anh N kết hôn hợp pháp và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Qúa trình chung sống vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn, va chạm do anh N mải chơi, đua đòi cờ bạc dẫn đến nợ nần. Hiện nay, anh N vẫn cư trú tại phố T1 nhưng không có mặt ở nhà, cố tình giấu địa chỉ. Mâu thuẫn giữa vợ chồng anh N, chị H chính quyền địa phương biết rõ, đã hòa giải nhiều lần để vợ chồng đoàn tụ nhưng không có kết quả.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Về áp dụng pháp luật tố tụng:

- Quan hệ pháp luật và thẩm quyền quyền giải quyết vụ án: Đây là quan hệ ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

- Tại phiên tòa ngày 26/11/2018, anh N được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử đã hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa hôm nay (ngày 14/12/2018), anh N vắng mặt, chị H có mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định xử vắng mặt.

- Trong quá trình giải quyết vụ án, chị Lê Thị Diễm H có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải được quy định tại khoản 4 Điều 207 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án không tiến hành hòa giải là có căn cứ.

[2].Về áp dụng pháp luật nội dung:

-Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Lê Thị Diễm H và anh Đặng Hoài N là tự nguyện, hợp pháp; có đăng ký kết hôn vào ngày 17/9/2012 tại UBND phường T2, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình.

. Sau khi kết hôn một thời gian, vợ chồng nảy sinh mâu thuẫn trầm trọng, thường xuyên cãi vã và xô xát. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng gặp khó khăn về kinh tế, anh N không chăm lo cho gia đình, không quan tâm đến vợ con, vợ chồng bất đồng quan điểm sống, anh N nhiều lần có thái độ thiếu tôn trọng chị H và gia đình chị H. Vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2014 đến nay. Trong thời gian ly thân, anh N không quan tâm và không có trách nhiệm với chị H và con. Gia đình, phố xóm cũng đã khuyên bảo vợ chồng đoàn tụ nhưng không có kết quả.

Từ những căn cứ trên thể hiện tình trạng hôn nhân giữa anh Đặng Hoài N và Lê Thị Diễm H đã lâm vào mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử cần chấp nhận đơn khởi kiện của chị H xin ly hôn với anh Đặng Hoài N.

- Về nuôi con chung: Chị H và anh N có 01 con chung là cháu Đặng Tâm Đ1 sinh ngày 01/10/2013. Hiện nay cháu đang ở với chị H. Chị H xác định bản thân có đủ khả năng để nuôi dưỡng, chăm sóc cho cháu và có nguyện vọng nuôi cháu Đ1 và không yêu cầu Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con chung. Hội đồng xét xử xét thấy chị H đảm bảo điều kiện để nuôi dưỡng cháu Đ1, giao cho chị H trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Đặng Tâm Đ1 đến khi cháu Đ1 đủ 18 tuổi là phù hợp.

- Về cấp dưỡng nuôi con chung, chia tài sản: Chị H không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

[3].Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị H chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147, Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 26, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Diễm H về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” đối với anh Đặng Hoài N.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Diễm H ly hôn anh Đặng Hoài N.

2. Về nuôi con chung: Chị Lê Thị Diễm H trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Đặng Tâm Đ1 sinh ngày 01/10/2013 đến khi cháu Đ1 đủ 18 tuổi.

Anh Đặng Hoài N không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi con, có quyền nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

3.Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Lê Thị Diễm H chịu phí ly hôn là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Số tiền trên được trừ vào số tiền chị H nộp tạm ứng án phí tại Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2018/0000910 ngày 13 tháng 9 năm 2018.

Án xử công khai sơ thẩm, chị Lê Thị Diễm H có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Đặng Hoài N vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày bản án niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 27/2018/HNGĐ-ST ngày 14/12/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:27/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: đang cập nhật
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;