TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 27/2017/HNGĐ-ST NGÀY 21/08/2017 VỀ TRANH CHẤP CẤP DƯỠNG CHO CON
Ngày 21 tháng 8 năm 2017 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thái Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 23/2017/TLST-HNGĐ ngày 21/3/2017 về tranh chấp cấp dưỡng cho con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2017/QĐXXST - HNGĐ ngày 18 tháng 7 năm 2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 16/2017/QĐST - HNGĐ ngày 02/8/2017, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Lại Thị Th, sinh năm 1991
Địa chỉ: thôn Th, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình.
2. Bị đơn: Anh Vũ Văn Th, sinh năm 1988
Địa chỉ: thôn P, xã V, thành phố T, tỉnh Thái Bình.
(Chị Th có đơn xin vắng mặt, anh Th vắng mặt không lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện đề ngày 02/3/2017, lời khai, biên bản lấy lời khai và các tài liệu chứng cứ đã xuất trình, nguyên đơn chị Lại Thị Th trình bày và có yêu cầu cụ thể như sau:
Chị Th và anh Vũ Văn Th đã ly hôn theo Quyết định giải quyết việc dân sự số 40/2016/QĐ-GQVDS ngày 29 tháng 4 năm 2016 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình. Khi giải quyết ly hôn, chị được giao chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là cháu Vũ Gia B, sinh ngày 08/4/2012 và không yêu cầu anh Th phải cấp dưỡng nuôi con chung. Tuy nhiên, đến thời điểm này con chung của anh chị ngày một lớn, nhu cầu ăn, uống, chi phí học hành ngày càng cao, cụ thể một tháng phải bỏ ra chi phí cơ bản, tối thiểu sau: 1.000.000 đồng tiền học phí, 500.000 đồng tiền sữa, 750.000 đồng tiền ăn hai bữa sáng, chiều, tổng cộng các khoản là 2.250.000 đồng. Bản thân chị làm công nhân tại Công ty Yasaki – Khu Công nghiệp Sông Trà, thành phố Thái Bình tuy ổn định nhưng thu nhập thấp, nuôi con một mình rất thiếu thốn, anh Th không quan tâm về mặt vật chất cho con. Mặt khác, hiện nay anh Th đang làm công tại Công ty Nienshing Việt Nam thuộc Khu công nghiệp Nguyễn Đức Cảnh, thành phố Thái Bình có thu nhập ổn định.
Vì vậy, chị Th yêu cầu anh Th phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con số tiền 1.000.000 đồng/1 tháng kể từ tháng 8/2017 đến khi con chung đủ 18 tuổi.
*Ông Vũ Văn N, sinh năm 1944, trú tại thôn P, xã V, thành phố T, tỉnh Thái Bình (là bố đẻ của anh Vũ Văn Th) cung cấp nội dung như sau:
Gia đình ông đã nhận được thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải của Tòa án và đã trực tiếp giao lại các văn bản này cho anh Vũ Văn Th. Nhiều lần ông N động viên anh Th lên Tòa án làm việc theo giấy triệu tập nhưng ông không biết lý do tại sao anh Th lại không lên Tòa án.
Anh Vũ Văn Th và chị Lại Thị Th đã giải quyết ly hôn từ năm 2016 và có một con chung là cháu Vũ Gia B, sinh ngày 08/4/2012. Nay chị Lại Thị Th yêu cầu anh Th phải cấp dưỡng nuôi con là yêu cầu chính đáng nên ông sẽ động viên anh Th góp tiền cấp dưỡng nuôi con cho chị Th. Hiện tại anh Th đang làm công nhân tại công ty nhưng ông không biết Công ty nào, ở đâu, vì anh Th đi làm từ sáng đến tối mới về nhà.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến tại phiên tòa về giải quyết vụ án dân sự:
- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn đều tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật. Bị đơn không thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng quy định tại các Điều 70, 71 Bộ Luật Tố tụng Dân sự: Vắng mặt khi được Tòa án triệu tập đến làm việc, không cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án.
- Về nội dụng vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng dụng Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình ; Điều 12, Điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14. Buộc anh Vũ Văn Th phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con theo quy định của pháp luật và yêu cầu của chị Lại Thị Th.
Chị Th không phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con, anh Vũ Văn Th phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Tòa án đã gửi thông báo thụ lý vụ án, triệu tập hợp lệ các đương sự để trình bày lời khai, tham gia tố tụng tại phiên tòa nhưng bị đơn là anh Vũ Văn Th không trình bày lời khai và vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Nguyên đơn là chị Lại Thị Th có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa. Vì vậy, Tòa án xét xử trong trường hợp vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.
[2] Về nội dung:
Về yêu cầu cấp dưỡng: Khi ly hôn, chị Th được giao chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, hai bên thỏa thuận anh Th không phải cấp dưỡng cho con. Tuy nhiên, do việc nuôi con một mình với mức thu nhập thấp của chị Th không đáp ứng được nhu cầu cơ bản về đời sống vật chất của đứa trẻ. Vì vậy, việc chị Th yêu cầu anh Th phải có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung là yêu cầu chính đáng, bởi việc cấp dưỡng cho con chưa thành niên không chỉ là nghĩa vụ mà còn là quyền của bậc làm cha, làm mẹ để giành cho con những gì tốt đẹp nhất. Quan trọng hơn là qua việc cấp dưỡng cho con sẽ đảm bảo được sự gắn kết giữa cha mẹ và con.
Về mức cấp dưỡng: chị Th yêu cầu anh Th cấp dưỡng cho con số tiền 1.000.000 đồng/1 tháng từ tháng 8/2017 đến khi con chung đủ 18 tuổi là phù hợp pháp luật và bảo đảm quyền lợi cho cháu Vũ Gia B, nên yêu cầu của chị Th được chấp nhận.
Về án phí: chị Lại Thị Th được miễn nộp án phí dân sự sơ thẩm. Anh Vũ Văn Th phải nộp 300.000 đồng án phí sơ thẩm về cấp dưỡng nuôi con.
Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định.
Căn cứ nhận xét trên.
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng Điều 203, 227, 228, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 69, 81, 82, 110, 116 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 12, Điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.
I. Xử chấp nhận yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung của chị Lại Thị Th đối với anh Vũ Văn Th.
II. Xử buộc anh Vũ Văn Th phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chung là cháu Vũ Gia B, sinh ngày 08/4/2012, số tiền 1.000.000 đồng (một triệu đồng)/1 tháng kể từ tháng 8/2017 đến khi con chung đủ 18 tuổi.
III. Về án phí: Chị Lại Thị Th được miễn nộp án phí dân sự sơ thẩm. Anh Vũ Văn Th phải nộp 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.
IV. Về quyền kháng cáo: Chị Lại Thị Th và anh Vũ Văn Th có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 9 Luật thi hành án dân sự ; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 27/2017/HNGĐ-ST ngày 21/08/2017 về tranh chấp cấp dưỡng cho con
Số hiệu: | 27/2017/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 21/08/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về